Chính Đề Việt Nam

Chính Đề Việt Nam
  Phạm Bình Thuận, Ph.D 
‘’HY VỌNG có hai nữ tử xinh đẹp, tên của họ là ‘SỰ NỔI GIẬN’ và ‘LÒNG CAN ĐẢM’: Nổi Giận trước cảnh huống đang diễn ra trước mắt và Can Đảm để chân nhận rằng cảnh huống này không tiếp tục được nữa’’.
St. Augustine Những Bài học Thực Tiễn Vượt Thời Gian nhằm Định Hướng Hành Trình cho DânTộc qua Phân Tích và Suy Luận từ Thực Tế Lịch Sử của ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu
Chẳng phải bắt nguồn từ một cảm xúc hoài cổ lãng mạn, càng không phải là một động cử thời thượng nhằm khơi lên tính hiếu kỳ nhất thời của người đọc, nhưng từ một thúc bách đơn giản thâm sâu khiến chúng tôi viết lên những dòng này, như một cố gắng phủi bớt lớp bụi mờ thời gian, nhằm trình bày những nét óng ả trân quý bàng bạc ẩn tàng trên từng trang giấy của công trình nghiên cứu này.
Đây là công trình biên khảo của ông Ngô Đình Nhu được hoàn tất vào những năm đầu của thập niên 60. Mặc dù bị vùi lấp dưới giòng thời gian gần một phân nửa thế kỷ, do nhiều điều kiện khách quan và chủ quan, nhưng Bộ Tài Liệu này vẫn giữ được những giá trị nguyên thủy của những suy luận không thể chối cãi được.
Điều va động mạnh nhất vào tư duy của người đọc là những tiên liệu chính xác của tác giả về các diễn biến lịch sử trên thế giới trong nửa thế kỷ vừa qua, dựa trên phương pháp phân tích từ ‘’vị trí thực tế lịch sử’’. Đây cũng chính là phương pháp phân tích được sử dụng rất rộng rãi bởi các cố vấn chính trị hiện đại trên chính trường Hoa Kỳ, tiêu biểu là Karl Rove.
Xin đơn cử một vài ví dụ từ phân tích của tác giả:  
‘’Như vậy, thuyết cộng sản đối với Nga chỉ là một phương tiện và ngày nào mục đích đã đạt được, phương tiện sẽ không còn giá trị nữa.
Các biến cố hiện tại ở Âu Mỹ chứng tỏ rằng Nga sắp đến lúc bỏ phương tiện cộng sản và trở về với xã hội Tây phương.
Những sự tiếp xúc của Tòa Thánh La Mã với các lãnh tụ Giáo Hội Nga là một trong những cố gắng để đưa Nga Sô về xã hội Tây phương.
Và ngày đó sự tranh chấp quyết liệt giữa cộng sản và Tư Bản, như ngày nay, sẽ tự tiêu và nhường chỗ cho một cuộc tranh chấp khác quyết liệt hơn hiện nay đã bắt đầu thành hình giữa khối Trung Cộng và khối Âu Mỹ’’. (trang 29)
Điều va động tư duy kế đến là kỹ năng vận dụng của tác giả từ các bài học trong lịch sử, có khi từ hàng trăm năm trước, mà áp dụng vào các chính sách và chiến thuật đương thời của quốc gia. Một ví dụ điển hình là Quốc Sách Ấp Chiến Lược: Từ khái niệm, lược đồ cho đến kỹ thuật và phương tiện: Đê hào đắp bằng đất, lũy nhiều tầng dựng lên bằng tre chẻ, chông bằng tre vót nhọn, là được chiết xuất từ binh kế chống Trung Hoa ngoại xâm của Lý Thường Kiệt.
Sau cùng, sự va động thâm trầm nhưng lan tỏa và bao trùm suốt mọi mạch văn trong toàn hệ tư tưởng của Bộ Tài Liệu là ý chí sắt thép (một mất một còn) chống Tàu cộng bành trướng. Tác giả đã vẽ lên một viễn ảnh đen tối nếu Miền Nam rơi vào tay Bắc Việt, thì sự kiện Tàu cộng xâm chiếm Việt Nam chỉ còn là vấn đề thời gian. Điều này càng ngày càng được minh chứng rõ ràng qua những biến chuyển tại Việt Nam được phô bày trong những ngày gần đây: Văn kiện do ông Thủ Tướng Phạm văn Đồng ký nhằm công nhận Hoàng Trường Sa thuộc về Trung Cộng, và các sự kiện liên quan đến vấn đề nhường đất tại biên giới: Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc...
Cũng từ lý do đó mà tác giả đặc biệt ngưỡng mộ hai Vị Đại Anh Hùng Dân Tộc là Lý Thư­ờng Kiệt và Nguyễn Huệ do ý chí của Hai Vị nhằm đột phá não trạng thuộc quốc của Tàu đã bám rễ trong cấp lãnh đạo Việt Nam, trải dài hàng ngàn năm trong lịch sử Đất Nước.
Trong khung cảnh eo hẹp của đoản văn thô thiển này, chúng tôi cố gắng cô đọng tư tưởng của tác giả và giữ gìn phấn khí nồng cốt của những mạch văn chính. Chúng tôi ước mong mỗi một đọc giả đều có cơ hội tiếp cận với toàn bộ bản văn để tạo sự giao lưu những phản hồi sau dó, nhằm bồi đắp và phong phú hóa kinh nghiệm học hỏi này.
Nhận thấy hầu hết mọi phương pháp phân tích từ công trình nghiên cứu này vẫn có thể được tham khảo để áp dụng vào các hoàn cảnh cụ thể của Đất Nước trong tình hình hiện nay, chúng tôi trân trọng giới thiệu Bộ Tài Liệu này như là một phương thế nhằm trao đổi, học hỏi và chiết xuất các phương án cho tương lai.
A. Bố cục của Bộ Tài Liệu:
Để dễ dàng cho người đọc chúng tôi xin trình bày Mục Lục tóm lược ở đây:
         MỤC-LỤC
Bối Cảnh của Vấn Đề
Phần I: Nhận Định về Thế Giới
Phần II: Vị Trí của Việt Nam trong Khung Cảnh vừa Trình Bày
Phần III: Điều Kiện Nội Bộ
Phần IV: Một Lập Trường Thích Hợp Với các Nhận Xét Trên
ĐỂ KẾT LUẬN: Trụ mà không trụ.
B. Những Phác Họa Thô Sơ:
Vị Trí của Tác Giả:
Đây là định điểm mấu chốt cho toàn bộ tư tưởng trong ‘’Chính Đề Việt Nam’’. Tác giả muốn khẳng định ngay từ phút ban đầu:
‘’Vị trí thứ nhứt là một vị trí lúc nào tác giả cũng sẽ đứng vào để nhìn tất cả các vấn đề trình bày: Đó là vị trí thực tế lịch sử. Bởi vì thực tế lịch sử không có thể phủ nhận được. Và trên nền tảng vững chắc đó mới có thể lấy óc khoa học mà suy luận không sợ phạm vào những lỗi lầm căn bản. Vị trí thứ hai là vị trí không bao giờ tác giả dám đứng vào để nhìn bất cứ vấn đề nào được trình bày: Đó là vị trí triết lý, tôn giáo, và lý thuyết là những lãnh vực mà sự đối chọi giữa hai chủ trương trái ngược có thể kéo dài vô cùng tận. Bất cứ trong lãnh vực nào của đời sống của cộng đồng: Chính trị, văn hóa, và kinh tế, sự nhận xét phân tách và suy luận của tác giả đều căn cứ trên những sự kiện lịch sử và để một bên tất cả các lý thuyết’’. (trang 22)
Chính vì thế mà tác giả đã can đảm xác định rằng: ‘’Bởi vì mấy trăm trang dưới đây là một tài liệu nghiên cứu sự kiện thực tế của lịch sử. Mà thấy được thực trạng của vấn đề, biết mình và biết chung quanh mình là một yếu tố quyết định cho sự thắng lợi.
Chính vì lập trường nghiên cứu sự kiện thực tế của lịch sử, cho nên tự ti mặc cảm tuyệt nhiên không có, khi nhận xét rằng Việt Nam là một quốc gia nhỏ và yếu. Nhỏ và yếu vì dân số, vì kinh tế kém mở mang, và vì sự góp phần vào văn minh nhân loại. Và chính là khi chúng ta dám nhìn thẳng vào thực trạng của dân tộc, chúng ta mới đủ điều kiện đưa dân tộc vượt lên’’. (trang 23)
Và sau đây là một xác quyết táo bạo của tác giả:
‘’Và cũng vì lý do trên mà tài liệu này không đề cập đến bốn ngàn năm văn hiến của dân tộc, lại chỉ nói đến một ngàn năm lịch sử. Cũng như trên làm nư­ vậy không phải vì tự ti mặc cảm. Những gì trong lịch sử của chúng ta chỉ có một ngàn năm sau này mới có đủ tài liệu đích xác để làm nền tảng cho suy luận’’. (trang 24)
Dẫn Nhập: Bối Cảnh của Vấn Đề:
‘’Nước Việt Nam là một nước nhỏ, nhỏ về dân số, nhỏ về lãnh thổ, nhỏ về kinh tế kém phát triển, và nhỏ về sự góp phần của chúng ta vào văn minh nhân loại.
Trong suốt phần lịch sử nhân loại mà chúng ta được biết tới ngày nay, số phận của các quốc gia nhỏ, từ x­a vẫn không thay đổi. Lúc nào các quốc gia nhỏ cũng phải bị chi phối bởi những trận phong ba bão táp vô trách nhiệm do các nước lớn gây ra. Và lúc nào cũng sống dưới sự đe dọa liên tục của một cuộc ngoại xâm.
Từ ngày lập quốc, hơn một ngàn năm lịch sử đã chứng minh rằng Việt Nam chúng ta không thoát ra ngoài vận mạng thông thư­ờng đó. Hết phải chống Bắc, rồi phải chống Tây, rồi lại phải chống Bắc. Liên tục và lúc này hơn lúc nào hết, nạn ngoại xâm vẫn đe dọa dân tộc Việt Nam’’. (trang 9)
Nhận định này vẫn hoàn toàn chính xác cho tình hình Đất Nư­ớc hiện nay.
Hiểm họa ngoại xâm của Tàu cộng bành trướng là vấn đề nhức nhối nhất hiện nay cho mỗi một công dân có ý thức, trong nư­ớc cũng như ở hải ngoại. Thể lực bành trướng của Tàu cộng đang hoành hành trên Đất N­ước chúng ta.
Thế lực này ngày càng nguy hiểm và cực kỳ tinh vi và đã đạt đến địa vị thống trị trong bộ máy cai trị toàn dân.
Từ chiêu bài cộng sản quốc tế và ẩn núp dưới mọi lớp áo của chủ nghĩa giải phóng dân tộc qua mỗi giai đoạn, họ đã triệt để lợi dụng xương máu, nhiệt huyết và lòng dũng cảm của bao nhiêu thế hệ thanh niên Việt Nam nhằm thống lĩnh toàn cõi Đất Nước.
Qua thời gian, Tàu cộng bành trướng đã thành công trong việc tập trung quyền hành tuyệt đối vào một bộ máy cai trị, đó là bộ chính trị của đảng cộng sản Việt Nam.
Ngày nay, bộ máy cai trị này bao gồm mười bốn quan thái thú tuyệt phẩm mang danh hiệu ủy viên bộ chính trị trung ương đảng cộng sản Việt Nam. Họ nắm mọi quyền sinh sát trong tay và tận hưởng mọi đặc quyền đặc lợi của quốc gia. Nhưng họ phải tuyệt đối thỏa mãn các yêu sách bành trướng của Tàu cộng.
Từ bộ chính trị trung ương này, như hình hài của một con bạch tuộc, các cánh tay vòi hút vươn ra khắp mọi miền Đất Nước, qua hệ thống với danh xưng đảng ủy: Từ thành phố đến thôn quê, từ trung ương đến mỗi địa phương.
Đây là hệ thống quyền lực tối cao nhất bao trùm mọi miền Đất Nước, mọi cơ chế Nhà Nước khác chỉ là bộ áo ngoại vi nhằm làm trơn tru nhịp nhàng các động cử của đảng xuất phát từ trung ương.
Ngoài tác dụng bùng nhùng hành chính cố ý để che đậy và luồn lách cho đảng, các cơ chế Nhà Nước còn có vai trò hứng đỡ sức ép từ quần chúng nhân dân trong những trường hợp cấp thiết.
Khái quát như thế để chúng ta thấy rằng trong thâm sâu, đảng cộng sản Việt Nam qua đầu máy bộ chính trị trung ương ngày càng tỏ lộ rõ ràng là một công cụ tinh vi xuất sắc phục vụ đắc lực cho thế lực Tàu cộng bành trướng.
Trong tình hình hiện nay của Đất Nước, khi chúng ta nói tới ‘’thế lực ngoại xâm’’ hay ‘’thế lực Tàu cộng bành trướng’’ thì đảng cộng sản Việt Nam với bộ mặt và danh ư­ng bộ chính trị trung ương cùng với hệ thống đảng ủy là một bộ phận của thế lực này.
Trong chiêu sách dùng người bản quốc cai trị người bản quốc để phục vụ kế hoạch bành trướng, Tàu cộng đã thành công lớn tại Việt Nam nhờ vào sự phối hợp của đảng cộng sản Việt Nam. Điều này không khó để nhận ra. Lịch sử đã cung cấp các văn kiện quan yếu đó, như quyết định của ông Thủ Tướng Phạm văn Đồng công nhận lãnh hải 12 hải lý của Tàu cộng để nhường biển và các Quần Đảo Hoàng-Trường Sa và việc cắm lại các cột mốc biên giới vừa qua nhằm nhường đất cho Tầu cộng. Nên lưu ý, đây chỉ mới là giai đoạn đầu của một kế hoạch lớn sẽ được dần hồi triển khai qua từng thời kỳ.
Hiểu như thế thì việc phân tích và giới thiệu công trình nghiên cứu ‘’Chính Đề Việt Nam’’ lại có ý nghĩa thực dụng sâu sắc rộng lớn.
Tác giả của Bộ Tài Liệu tiếp tục:
‘’Để duy trì ách thống trị của mình, các cường quốc xâm lăng thường áp dụng, đối với các dân tộc bị trị, nhiều biện pháp, tuy có khác nhau về hình thức, nhưng chung qui vẫn thuộc hai loại chính.
* Ngăn ngừa không để cho các quyền lợi kinh tế thuộc vào tay người bản xứ.
* Kiềm hảm không để cho dân trí phát triển.
Các loại biện pháp thứ nhứt nhằm mục đích tiêu diệt tất cả các phương tiện vật chất của người bị trị.
Các loại biện pháp thứ hai nhằm mục đích tiêu diệt những người có khả năng sử dụng các phương tiện vật chất trên, nghĩa là các nhà lãnh đạo xứng danh.
Đối với các dân tộc bị trị hai loại biện pháp trên đều có những hậu quả vô cùng thảm khốc. Tuy nhiên, nếu không có phương tiện của mình thì còn có thể tìm phương tiện khác, chớ nêu không có người lãnh đạo, thì dù có phương tiện cũng không xử dụng được.
Vì vậy cho nên, đối với một quốc gia mà nền độc lập bị đe dọa hay đã mất, thì phương pháp hữu hiệu nhứt và điều kiện thiết yếu nhứt để chống lại ngoại xâm là nuôi dưỡng và phát triển sự lãnh đạo.
Trong thực tế, nuôi dưỡng và phát triển sự lãnh đạo có nghĩa là tạo hoàn cảnh thuận lợi để cho cái tinh túy của tập thể hun đúc nên thiểu số lãnh đạo xứng danh’’ (trang 10)
Như­ thế, theo tác giả, vấn đề tuyệt đối quan yếu (không thể không có) là nuôi dưỡng và phát triền sự lãnh đạo.
Và như thế nào là thiểu số lãnh đạo xưng danh ?
Vai trò tối cần của thiểu số lãnh đạo và sự thấu triệt vấn đề của cộng đồng.
Tác giả giới thiệu khái niệm thăng bằng động tiến giữa ‘’thiểu số lãnh đạo, và ‘’đa số chịu lãnh đạo’’ như sau:
‘’Trong toàn bộ của cộng đồng, gồm có thiểu số lãnh đạo cộng đồng và đại đa số chịu sự lãnh đạo. Cộng đồng lành mạnh khi nào, giữa thiểu số lãnh đạo và đa số chịu sự lãnh đạo, sự thông cảm chạy đều, dẫn dắt đến một sự phối hợp hữu hiệu trong mọi công cuộc của cộng đồng (trang 10)
Thiểu số lãnh đạo xứng danh phải bao gồm những ng­ời có đạo đức (Nhân), có đủ khả năng vật chất, lý trí và tinh thần (Dũng và Lược) để ứng phó với các tình thế, và phải thấu triệt vấn đề cần phải giải quyết của tập thể (trí). Trí nghĩa là thấu triệt vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng, và vì sự thấu triệt vấn đề chỉ có thể thực hiện bằng cách suy tầm, khảo cứu, phân tích, lĩnh hội, quan sát và tổng kết những tài liệu bên ngoài liên quan đến vấn đề. Không có tài liệu bên ngoài thì một bộ óc dù thông minh xuất chúng, cũng không làm sao hiểu đ­ợc vấn đề’’. (trang 10)
Như­ thế, chúng ta có thể rút ra được ba luận điểm:
1.- Việt Nam của chúng ta là một nước nhỏ và yếu lúc nào cũng bị nạn ngoại xâm đe dọa.
2.- Trong công cuộc chống ngoại xâm, một khí giới hữu hiệu nhứt là phát triển lãnh đạo.
3.- Trong công cuộc phát triển lãnh đạo, điều kiện thiết yếu cần đ­ợc thỏa mãn là:
Thiểu số lãnh đạo phải thấu triệt vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng.
Đa số chịu lãnh đạo và vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng.
Điều kiện thiết yếu để thực hiện sự tự giác đóng góp như­ vậy là đa số chịu sự lãnh đạo phải ý thức cộng đồng và hiểu biết vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng. Có như vậy thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh đạo mới phối hợp điều hòa và tạo cho cộng đồng sinh lực cần thiết để vượt qua các thử thách quyết hệt đang đợi chờ.
Những lý lẽ để chứng minh sự kiện này lại nằm trong một ngàn năm lịch sử của dân tộc Việt chống lại Trung Hoa.
‘’Kinh nghiệm lịch sử của chúng ta chứng tỏ rằng, rốt cuộc lại, không phải ngoại giao, cũng không phải quân lực đã giúp cho chúng ta mấy lần đánh bại các cuộc xâm lăng của Trung Hoa và mấy lần quật khởi sự thống trị ác nghiệt của họ.
Chúng ta đã đánh bại quân xâm lăng và quật đổ ách thống trị vì chúng ta có người lãnh đạo và ý thức quốc gia được hun đúc và nuôi dưỡng cũng như vấn đề của quốc gia được giải thích sâu rộng trong đa số chịu lãnh đạo’’.
Theo tác giả, chỉ có sự tôn trọng tinh thần dân chủ mới và phát huy sự hiểu biết của đa số chịu lãnh đạo đối với vấn đề cần phải giải quyết của quốc gia là vũ khí bén nhạy nhất để chống ngoại xâm.
Sức mạnh của sóng và gió
Tác giả nhận đinh rằng mãnh lực của lý thuyết tranh đấu là sóng, rất dễ thấy, nhưng người ta không nhìn thấy công trình nghiên cứu thực tế lịch sử làm hậu thuẫn cho mãnh lực đó, cũng như nhìn thấy mãnh lực của lượn sóng mà không nhìn thấy sức mạnh của gió tạo ra lượn sóng.
Đây là điều phải trở nên tâm đắc và trọng tâm học hỏi cho mỗi cá nhân và tập thể của cộng đồng trong mỗi một phương h­ớng dấn thân.
Tín ngưỡng
Tác giả nhận định rằng tín ngưỡng là một tín hiệu tập hợp hữu hiệu. Các chế độ cộng sản đàn áp tôn giáo chính vì khả năng qui tụ nói trên, lúc nào cũng đe dọa sự độc quyền lãnh đạo cộng đồng mà theo họ nhứt thiết phải dành cho đảng cộng sản. Tín ngưỡng sẽ trở thành lợi khí chống lại cộng sản trong hai tr­ường hợp:
- Khi bị cộng sản đàn áp.
- Khi khả năng qui tụ của tín ngưỡng được sử dụng trong công cuộc giải quyết các vấn đề do thực trạng xã hội tạo ra.
Như thế thì, nếu muốn cho chủ trương cộng sản thất bại, thì phải làm hai việc:
- Tìm hiểu rõ thực trạng của vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng.
- Có một giải pháp khác để thay thế cho giải pháp cộng sản.
Lý thuyết tranh đấu
Tác giả nhận định rằng các lý thuyết đưa ra làm lý thuyết tranh đấu để chống lại chủ nghĩa cộng sản đã có nhiều. Và hiện nay vẫn còn có người đang đi tìm một lý thuyết khác nữa với tác dụng trên. Mỗi lý thuyết có một số người tin tưởng, nhứt quyết trung thành với lý thuyết của nhóm mình và thành thật hay miễn cưỡng bảo vệ lý thuyết đó. Thành ra khối người theo chủ trương Quốc Gia chia năm xẻ bảy làm cho sinh lực chống lại kẻ địch còn yếu hơn là lúc không có lý thuyết !
Thật là không có gì làm cho người cộng sản vui sướng bằng tình trạng đó. Và họ chỉ ư­ớc mong khối quốc gia tạo ra thêm nhiều lý thuyết tương tư.
 
PHẦN I
NHẬN ĐỊNH VỀ THẾ GlỚl
            Lĩnh vực chính trị
           Thế giới lúc bấy giờ chia làm Ba Khối: Khối Tây Phương, Khối Hồi Giáo và Khối cộng sản.
Lĩnh vực văn hóa 
Trước tiên là khối Âu Mỹ gồm các nước ở Âu Châu, kể cả Nga Sô và các nước Đông Âu thuộc Nga. Các nước ở Bắc và Nam Mỹ và những quốc gia do người Âu lập ra ở Úc Châu, Tân Tây Lan và Nam Phi. Khối này gồm các nước thuộc vào xã hội Tây phương thừa hưởng văn hóa Hy Lạp và La Mã khi xưa và văn hóa Gia Tô sau này.
Khối thứ hai gồm các quốc gia Ả Rập ở từ vùng cận Đông đến Hồi Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Soudan, Ai Cập và các quốc gia Bắc Phi Châu. Khối này lập thành xã hội Hồi Giáo thừa hưởng văn hóa Hồi Giáo.
Khối thứ ba gồm các quốc gia ở phía Đông Đại lục Âu Á: Nhật Bổn, Đại Hàn, Trung Hoa và Việt Nam, lập thành xã hội Đông Á thừa hưởng văn hóa xưa của Trung Hoa.
Khối thứ tư gồm Ấn Độ và ngoài các nước nhỏ phụ cận Ấn Độ phía Bắc, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Cam Bốt, Mã Lai và Nam Dương. Lập thành xã hội Ấn Độ thừa hưởng văn hóa Ấn Độ.
Và sau hết Khối Hắc Phi gồm các quốc gia mới xuất hiện ở Phi Châu lập thành xã hội Hắc Phi có một văn hóa phôi thai.
Lĩnh vực khoa học kỹ thuật 
Trên lĩnh vực khoa học và kỹ thuật thì các khối chính trị văn hóa nói trên tự nhiên biến mất, và lại hiện ra một hiện trạng thống nhất bất ngờ. Tất cả các quốc gia trên đều theo đuổi một khoa học, khoa học Tây phương (đều áp dụng một kỹ thuật) kỷ thuật Tây phương, dù kỹ thuật đó thuộc về lĩnh vực chính trị, hay quân sự, hay giáo dục hay sản xuất, hay kinh tế, hay kỹ nghệ, hay vận tải và giao thông.
Văn minh Tây phương chinh phục thế giới.
Sau một thời kỳ bị chế ngự bởi văn minh Hồi Giáo, văn minh Tây phương phát triển một cách hùng mạnh. Nền văn minh này tự tạo cho mình một sinh lực dồi dào nhờ thừa hưởng được văn hóa Hy Lạp và La Mã xây dựng trên những căn bản lý trí chính xác và nhờ ở Kinh Thánh Gia Tô gieo cho quần chúng một đức tin mãnh liệt.
Tác giả nhận định rằng:
- Văn minh Tây phương đã chinh phục thế giới, và đã chinh phục bằng khoa học kỹ thuật.
- Các quốc gia nào muốn tồn tại đều phải khắc phục khoa học Tây phương và kỹ thuật Tây phương.
Nhưng muốn khắc phục được khoa học Tây phương và kỹ thuật Tây phương, trước tiên phải khắc phục lối suy luận của Tây phương đặt trên căn bản chính xác về lý trí. Và sau đó khắc phục những tập quán trong đời sống hằng ngày khả dĩ nuôi dưỡng và duy trì lối suy luận trên.
Vì vậy cho nên, ngày nay trên thế giới vấn đề Tây phương hóa là một vấn đề thiết yếu cho các quốc gia muốn tồn tại.
Và đó cũng là một vấn đề thiết yếu cho nước Việt Nam.
Cộng Sản ở Tây phương.
Cuối thế kỷ 19, Tây phương phát minh những kỹ thuật sản xuất kỹ nghệ. Karl Max, triết học gia và kinh tế gia, người Đức gốc Do Thái, sống ở Anh, nhận thấy rằng tất cả các tệ đoan lúc bấy giờ do ở chỗ các cơ cấu của xã hội Tây phương không còn thích nghi với những lực lượng sản xuất mới do các phát minh kỹ thuật mang đến. Do đó ông Karl Max đề nghị một kiểu xã hội mới xây dựng trên những căn bản mới để cho phù hợp với các phương tiện sản xuất mới. Ông chủ trương thành lập xã hội mới bằng một cuộc cách mạng toàn diện.
Như vậy, ở Tây phương, thuyết cộng sản là một phương thuốc của Tây phương đề nghị để chữa căn bệnh cho xã hội Tây phương trong một giai đoạn phát triển cam go.
Về sau các nhà lãnh đạo Tây phương lại tìm được nhiều phương thuốc khác, nhờ đó mà xã hội Tây phương chẳng những trở nên lành mạnh mà còn phát triển mạnh bạo hơn, như chúng ta thấy ngày nay. Do đó mà hiện nay, thuyết cộng sản đã mất rất nhiều sinh lực trong xã hội Tây phương và trong một ngày gần đây sẽ không còn nữa. (trang 27 & 28)
Cộng Sản ở Nga. 
Các nhà lãnh đạo Nga, theo chiến thuật cổ truyền, đang nỗ lực hấp thụ các kỹ thuật mới của Tây phương. Nhưng lần này ngoài các kỹ thuật vật chất họ lại thâu nhận thêm thuyết cộng sản. Vì hai lý do:
Họ muốn gấp rút bắt kịp Tây Âu bằng cách tổ chức trước Tây phương một xã hội mới và biến các nước Tây Âu thành những đồng minh nội tuyến trong lòng địch rất quí báu cho Nga trong cuộc tranh chấp hằng mấy thế kỷ với Tây Âu.
Cộng Sản ở Á Châu
Sở dĩ ngày nay thuyết cộng sản hoành hành được ở Á Châu là vì chính Tây phương đã tạo hoàn cảnh cho nó nẩy nở và chính Tây phương đã đưa nó vào. Sau khi thảm bại trước lực lượng chinh phục của Tây phương, các quốc gia ở Á Châu đều lần lượt bị biến thành thuộc địa hay bán thuộc địa.
Các quốc gia Á Châu dùng thuyết cộng sản như là một phương tiện để đánh kẻ xâm lăng và một phương pháp phát triển.
 
PHẦN II
VỊ TRÍ CỦA VIỆT NAM TRONG KHUNG CẢNH
THẾ GIỚI VỪA TRÌNH BÀY
Theo tác giả, vị trí quốc tế hiện tại của Việt Nam do các điểm dưới đây minh định: Việt Nam là một nước nhỏ và kém mở mang thuộc xã hội Đông Á và lúc bấy giờ Việt Nam vừa thoát khỏi ách thực dân và đang cần phải Tây phương hóa bảo vệ độc lập và để phát triển đời sống kinh tế hầu xây dựng hạnh phúc cho nhân dân.
Việt Nam là một nước nhỏ và kém mở mang vì những lý do sau đây:
- Thiếu kỹ thuật và phương tiện kỹ thuật sản xuất.
- Do đó lợi tức quốc gia thấp kém.
- Do đó mức sống của toàn dân thấp và thiếu.
- Sự mưu sống hằng ngày chiếm hết thời gian và năng lực, đời sống văn hóa không mở mang.
- Sự sáng tác kém giá tri và sự góp phần vào văn minh của nhân loại không có.
Việt Nam thuộc xã hội Đông Á.
Xã hội Đông Á gồm có các nước Đài Loan, Nhật Bổn, Triều Tiên và Việt Nam bao quanh đại lục Trung Hoa.
Trong hơn sáu ngàn năm lịch sử, các quốc gia trong xã hội này đều đã tiến hóa từ nền văn minh phát sinh trong đất Hán và lấy Hán tự làm nền tảng và phương tiện cho sự phát triển trong các lãnh vực.
Hậu quả của thuộc địa Pháp
Khi thực dân Pháp rời khỏi Việt Nam, do đ­ường lối đế quốc khắc nghiệt của Pháp, Việt Nam lâm cảnh thiếu hụt người lãnh đạo chính trị xứng danh vì những lý do sau:
Những kiến thức và kinh nghiệm của họ đều rời rạc và vặt vạnh vì như câu tục ngữ thường nói, họ không nhìn thấy rừng mà chỉ nhìn thấy từng gốc cây. Phụ trách từng gốc cây thì được, nhưng không phụ trách toàn thể khu rừng được và thêm vào đó là một tâm lý vô trách nhiệm.
Nhiều loại phản ứng
Nhật Bản: Óc sáng suốt và phi thường của những nhà lãnh đạo Nhật Bản lúc ấy đã cấp thời tìm ra những giải pháp này: Học kỹ thuật của địch thủ để thắng địch thủ, chế ngự kỹ thuật của địch thủ để thắng địch thủ. Các sự kiện trên đây là nguồn gốc của cuộc cách mạng duy tân của Nhật thời Minh Trị.
Nước Nhật đã thành công trong công cuộc Tây phương hóa để chống lại người Tây phương. Độc lập vẫn còn, chủ quyền vẫn nguyên, người Nhật cũng như ng­ời Nga đã hoàn toàn chủ động công cuộc Tây phương hóa của họ. Vì vậy cho nên, không lúc nào có sự gián đoạn trong việc diễn tiến của lịch sử của họ.
Trung Hoa và Thái Lan cũng bị sự tấn công của Tây phương như Nhật Bản. Nhưng các nhà lãnh đạo lại lựa chọn thái độ bảo vệ trạng thái điều hòa của nền văn minh cũ. Tuy nhiên chủ quyền trong hai quốc gia trên không hoàn toàn mất nên xã hội của họ không bị tan rã và không hề bị gián đoạn trong sự lãnh đạo.
Việt Nam: Sau cuộc chiến bại, nước Việt Nam bị chiếm làm thuộc địa. Chủ quyền bị mất hẳn, việc lèo lái con thuyền của chúng ta không còn ở trong tay của chúng ta nữa. Và sự kiện ấy đã xảy ra, vì, trong một giai đoạn quyết liệt của lịch sử dân tộc, chúng ta đã gặp phải một lớp người lãnh đạo thiếu sáng suốt và thiếu thiết thực, kiêu căng và không thức thời, không chịu phóng tầm mắt mà nhìn vào vấn đề thiết thực của dân tộc, tự giam hãm trí óc trong những quan niệm chật hẹp về quyền bính và triều đại.
Hậu quả tai hại nhất mà thời kỳ Tây thuộc đã để lại cho chúng ta là sự tan rã của xã hội Việt Nam và sự gián đoạn trong việc lãnh đạo quốc gia.
Lãnh đạo quốc gia gián đoạn.
Tác giả nhận định rằng: Sức mạnh của nước Anh hay nước Mỹ bắt nguồn trước hết từ chỗ hai quốc gia này đã thực hiện được việc liên tục lãnh đạo quốc gia trong gần 200 năm. Một nhà lãnh đạo Anh, ngày nay bước lên nắm chính quyền, là tức khắc sau lưng mình có 400 năm kinh nghiệm và văn khố làm hậu thuẫn.
Trên ph­ơng diện này, và với thời gian qua, cách mạng năm 1789 của Pháp, mang đến nhiều cuộc xáo trộn trong xã hội Pháp, là một biến cố có hại nhiều hơn có lợi cho quốc gia Pháp.
Nư­ớc Nga sau cuộc cách mạng 1917 đã thành công trong cuộc phát triển dân tộc và duy tân xã hội. Nhưng họ phải trả bằng một giá rất đắt và phải sau hơn ba mư­ơi năm, mới chế ngự được các chấn động do sự gián đoạn về lãnh đạo gây nên.
Từ đó, tác giả kết luận rằng: Sự lãnh đạo quốc gia liên tục quyết định trình độ thăng tiến của quốc gia.
Điều kiện của một sự lãnh đạo liên tục.
Tác giả minh định ba điều kiện căn bản:
- Không bao giờ thay đổi được tư tưởng của người lãnh đạo trong lúc họ đang hành động.
- Người lãnh đạo dù tài ba đến đâu cũng có lúc cần phải được thay đổi, vì tư tưởng không phải lúc nào cũng phù hợp với thực tế.
- Sự lãnh đạo quốc gia liên tục một khi được bảo đảm, di sản dĩ vãng của quốc gia càng thêm phong phú, và quốc gia càng giàu người lãnh đạo.
Vì những lý do trên, nên một chế độ độc tài, mà bản chất là dựa, trước hết, trên nguyên tắc không thay đổi người lãnh đạo, không thể phù hợp với thực tế. Và không phù hợp với thực tế là không thực hiện được sự lãnh đạo quốc gia liên tục.
Việt Nam đang cần phải Tây ph­ương hóa để phát triển dân tộc.
Tác giả dùng ví dụ thất bại của Ấn Độ từ thời Gandhi do không Tây phương hóa toàn diện nên xã hội Ấn Độ đến nay vẫn còn chậm tiến. Ngược lại, Nhật Bản do chính sách Tây phương hóa toàn bộ đến mức độ cao nên đã thành công trong việc biến nước Nhật thành cường quốc.
Điều quan trọng là sau khi thâu thập được kỹ thuật thì các quốc gia phải tiến đến trình độ thâu thập khả năng sáng tạo kỹ thuật như trường hợp của Nhật...
Tác giả khẳng định rằng: Chỉ khi nào các chuyên viên của chúng ta, sau khi đã hấp thụ được các kỹ thuật và khoa học của ngành mình, lại ý thức rõ rệt rằng, chỉ vừa bước đi qua một giai đoạn sơ khởi, và còn cần phải nỗ lực để đoạt đến chỗ chế ngự được khả năng sáng tạo trong ngành của mình, thì lúc bấy giờ cuộc Tây phương hóa của chúng ta mới đi đúng đường và có hy vọng thành công.
Nghĩa là phải học cho đ­ược cái bí quyết của người Tây phương đã giúp cho họ đẻ ra khoa học và kỹ thuật.
Đặc tính của văn minh Tây phương.
Tác giả luôn luôn đề cao các đặc tỉnh bất di bất dịch của văn minh Tây phương, đó là: Chính xác về lý trí, ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức. Và chính nhờ có những đặc tính này, mà nền văn minh Tây phương đã sáng tạo ra khoa học. Nhưng chính người Tây phương đã thừa hưởng những đặc tính đó của văn minh Hy Lạp và La Mã. Chính xác về lý trí, ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức đã nằm sẵn trong lối kiến trúc câu văn của Hy Lạp cũng như của La Mã.
Tưởng nên nhắc lại một lần nữa rằng người Tây phương không phải chỉ ngăn nắp, minh bạch trong tổ chức và chính xác về lý trí riêng trong lĩnh vực khoa học mà thôi. Họ đã ngăn nắp, minh bạch tổ chức và chính xác về lý trí trong câu văn, lời nói, hành động và đời sống hàng ngày. Trải qua nhiều thế kỷ các đức tính ấy đã được hun đúc thành tinh thần kỹ thuật Tây phương.
Tác giả đề cao vai trò của người phụ nữ một cách rất hợp lý khi viện dẫn đến vị trí của họ trong gia đình: Chúng ta phải ngăn nắp, minh bạch trong tổ chức và chính xác về lý trí trong tất cả các lĩnh vực của đời sống. Nghĩa là ngăn nắp, minh bạch trong tổ chức và chính xác về lý trí phải chi phối tất cả hoạt động của chúng ta, trong gia đình cũng như ngoài gia đình, từ phạm vì sinh hoạt thông thường đến những phát triển cao nhất của lý trí. Do đó, vai trò của mỗi người đều quan trọng, và do đó, vai trò của các người đàn bà trong gia đình vô cùng mật thiết với sự phát triển dân tộc.
Tác giả cũng viễn tượng đến phấn khí trùng điệp của đại cuộc: Một công cuộc phát triển dân tộc vĩ đại đến tầm mức ấy, hùng mạnh như n­ớc hải triều đang lên, hấp dẫn và lôi cuốn mọi người, vì đó là lẽ sống của dân tộc.
Công cuộc này đặt trọng tâm vào đại chúng và dồn nỗ lực về nông thôn nơi tập trung đa số nhân lực và tài sản của quốc gia.
Tôn giáo và công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa.
Tác giả suy luận từ hai loại giáo lý khác nhau mà các tôn giáo có mức độ tham gia khác nhau:
Loại thứ nhất gồm Gia Tô Giáo và Hồi Giáo, là các giáo lý công nhận đời sống ở thế gian này là sự thật và tìm cách giải quyết các vấn đề của nhân loại ngay trong cõi đời này.
Loại thứ hai gồm Phật Giáo, Lão Giáo và Ấn Độ Giáo, là các giáo lý phủ nhận đời sống ở thế gian này, không tìm cách giải quyết các vấn đề của nhận loại trong đời sống ở thế gian này và chỉ chú trọng đến đời sống ở thế giới bên kia.
Phát triển dân tộc và tôn giáo Việt Nam.
Nước Việt Nam, theo truyền thống văn hóa, nằm trong xã hội Trung Hoa và chịu ảnh h­ởng văn hóa của Tàu. Về phương diện tôn giáo, Phật Giáo và Lão Giáo đã ăn sâu vào đại chúng. Nhưng, cũng như­ ở Trung Hoa, sự phủ nhận đời sống hiện tại của hai giáo lý này đã được luân lý xã hội của Khổng Mạnh quân bình. Nhờ đó mà có thể nói rằng quần chúng Việt Nam sẵn sàng tham gia một công cuộc phát triển dân tộc. Theo sự kiện phân tích trên đây thiểu số tín đồ Thiên Chúa Giáo, sẽ đóng góp một sự tham gia tích cực vào công cuộc phát triển dân tộc.
Lẽ thứ hai là ngay trong Phật Giáo cũng có hai thái độ. Thái độ xuất thế, để tìm sự cứu rỗi cho bản thân, không phải trong đời sống này mà cho đời sống bên kia thế giới. Thái độ nhập thế, để tìm cách cứu độ chúng sanh ngay trong cõi đời này.
Hai cơ hội phát triển.
Tác giả đã viện dẫn các luận điểm chí lý như­ sau:
Cơ hội thứ nhất.
Vào khoảng các năm 30 của thế kỷ 19, sự phát triển và bành trướng của cường quốc Âu Châu đã lên đến một mức độ tối cao.
Năm 1842 người Anh gây chiến tranh Nha Phiến ở Trung Hoa và mở màn cho một cuộc tổng tấn công vào xã hội Đông Á. Sự dung võ lực để mở Hải Cảng Uraga của Nhật năm 1853 của Đại Tá Hải Quân Mỹ Perry và cuộc pháo kích Đà Nẵng năm 1856 của chiến thuyền Catinat của Pháp đều là những sự kiện đồng thời và do một nguyên nhân sanh ra.         
Nguy cơ tuy lớn lao thật, nhưng, đồng thời, lại là một cơ hội để Tây phương hóa, phát triển dân tộc. Bởi vì, sự bành trướng mạnh mẽ của hai Đế quốc Anh và Pháp, vừa là một nguồn mâu thuẫn giữa, một bên, hai đế quốc lớn, một bên, các quốc gia khác ở Tây phương.
Hoàn cảnh nội bộ của Việt Nam lại càng bi đát hơn nữa. Sau một cuộc nội chiến, tàn khốc và tiêu hao, kéo dài từ năm 1620 đến năm 1802, Nhà Nguyễn vừa thống nhất quốc gia được bốn mươi năm, thì họa xâm lăng Tây phương lại ồ ạt kéo đến. Những điều kiện chủ quan, như trên đã trình bày, quốc gia Việt Nam hoàn toàn không có.
Cơ hội thứ hai
Gần một thế kỷ sau, mâu thuẫn nội bộ giữa các cường quốc Tây phương lại bộc phát lên một cách dữ dội và dẫn dắt đến hai cuộc thế giới chiến tranh mà chúng ta đều biết. Chiến tranh chưa chấm dứt, sự tranh chấp, giữa hai quốc gia đã chiến thắng trong trận thế chiến hai, nay lãnh đạo hai khối chính trị trên thế giới, đã tạo ra cho các quốc gia, bị Tây phương xâm chiếm, một cơ hội duy nhất để tranh giành độc lập và phát triển dân tộc.
Do đó, thuyết cộng sản, một sản phẩm của Tây phương, đã đương nhiên biến thành một lợi khí, trong tay của Nga Sô, để đánh lại Tây phương trên hai mặt, trong và ngoài.
Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo Tây phương đã đủ già tay ấn để dẫn dắt xã hội Tây phương vượt qua được các cơn sóng gió. Sự phát triển, vẫn hùng mạnh, trong xã hội Tây phương hiện nay, chứng minh rằng xã hội này, đã vượt qua cơn khủng hoảng và đã xây dựng được những cơ cấu xã hội thích nghi với các lực lượng sản xuất mới, mà không cần phải áp dụng phương thuốc cộng sản.
Và như thế trong một thế giới gồm nhiều cường quốc, như thế giới hiện tại, nếu loại mâu thuẫn này chấm đứt, thì thế nào giữa các cường quốc cũng nảy sinh ra những loại mâu thuẫn khác. Vì vậy cho nên, miễn là thiểu số lãnh đạo xứng danh của chúng ta còn, là chúng ta còn cơ hội phát triển. Cơ hội phát triển của chúng ta khác với cơ hội phát triển của các khối lớn, như Trung Hoa hay Ấn Độ, là ở chỗ đó.
ĐIỀU KIỆN NỘI BỘ.
Liên lạc với Trung Hoa.
Tác giả nhấn mạnh sự kiện then chốt này và những lỗi lầm trong quá khứ cũng như đề nghị các biện pháp chống ngoại xâm như sau:
Từ khi lập quốc, năm 939, đến khi bị sự tấn công của Tây phương và biến thành một thuộc địa của đế quốc Pháp, hai sự kiện hoàn toàn chi phối chín trăm năm lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Hai sự kiện đó là sự liên lạc với Trung Hoa và công cuộc Nam tiến.
Từ năm 972, sau khi đã nhìn nhận độc lập của Việt Nam rồi, lúc nào Trung Hoa cũng nghĩ rằng đã mất một phần lãnh thổ quốc gia, và lúc nào cũng khai thác mọi cơ hội đưa đến, để thâu hồi phần đất mà Trung Hoa xem như là của họ. Bên kia, Việt Nam lúc nào cũng nỗ lực mang xương máu ra để bảo vệ nền độc lập của mình.
Ngay năm 981, nghĩa là vừa ba năm sau khi đã nhìn nhận độc lập của Việt Nam, Tống triều thừa lúc nội chính Việt Nam có biến, gởi sang Việt Nam hai đạo quân, do đường thủy và đường bộ, để đặt lại nền thống trị của Trung Hoa.
Trung Hoa, suốt gần một ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng muốn lấy lại mảnh đất mà Trung Hoa coi như bị tạm mất.
Chính sách này do một điều kiện địa dư và kinh tế ấn định: Lưu vực sông Hồng Hà là đường thoát ra biển thiên nhiên của các Tỉnh Tây Nam của Trung Hoa, và ngược lại cũng là con đường xâm nhập cho các đạo quân chinh phục vào nội địa Trung Hoa. Đã như­ vậy thì, ngay bây giờ, ý định của Trung Cộng vẫn là muốn thôn tính, nếu không phải hết nước Việt Nam, thì ít ra cũng Bắc phần.
Xem thế đủ biết rằng, đối với dân tộc chúng ta họa xâm lăng là một mối đe dọa thường xuyên. Bởi vì họa xâm lăng, do vị trí địa dư của chúng ta vào tình trạng nội bộ của chúng ta mà ra, và bao giờ hai yếu tố đó chưa thay đổi được thì họa xâm lăng vẫn còn.
Tâm lý thuộc quốc.
Họa xâm lăng đe dọa dân tộc chúng ta đến nỗi, trong suốt một ngàn năm lịch sử từ ngày lập quốc, trở thành một ám ảnh cho tất cả các nhà lãnh đạo của chúng ta. Và do đó mà lịch sử ngoại giao của chúng ta lúc nào cũng bị chi phối bởi một tâm lý thuộc quốc.
Hai lần Lý Thường Kiệt và Nguyễn Huệ tìm cách đả phá không khí lệ thuộc đỏ. Nhưng mặc dầu những chiến công lừng lẫy và tài ngoại giao rất khéo, hai nhà lãnh đạo trứ danh của dân tộc vẫn phải khuất phục trước thực tế.
Một câu hỏi mà chúng ta không thể tránh được: Chúng ta là một dân tộc ở sát bờ biển, nhưng sao nghệ thuật vượt biển của chúng ta không phát triển ? Nếu chính sách ngoại giao của chúng ta phong phủ hơn, và không bó hẹp vào một đường lối duy nhất, có lẽ sự bành trướng của dân tộc chúng ta, đã sớm phát ra nhiều ngõ, và sinh lực của chúng ta không phải chỉ dồn vào mỗi một công cuộc Nam tiến hiệu hơn.
Sự bành trướng của chúng ta đã thâu hẹp lại và chỉ theo có một chiều, bỏ hẳn cửa biển bao la đáng lý ra phải là cái cửa sống cho chúng ta.
Chính sách chống ngoại xâm.
Những sự thần phục và triều cống chỉ là những biện pháp hoãn binh. Và vấn đề chống ngoại xâm chưa bao giờ được các triều đại Việt Nam đặt thành một chính sách đương nhiên và nguyên tắc, đối với một nước nhỏ, như nước chúng ta. Vì thế cho nên, những biện pháp cần được áp dụng, như biện pháp ngoại giao, đã không hề được sử dụng khi Tây phương xâm chiếm nước ta.
Tuy nhiên biện pháp cần thiết nhất, hữu hiệu nhất và hoàn toàn thuộc chủ động của chúng ta, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, và phát huy ý thức quốc gia và dân tộc. Đồng thời, áp dụng một chính sách cai trị khoáng đạt, mở rộng khuôn khổ lãnh đạo, để cho vấn đề lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.
Những ý chí quật cường đó đến cao độ, mà không người lãnh đạo thì cũng không làm gì được đối với kẻ xâm lăng. Vì vậy cho nên, đồng thời với những biện pháp quần chúng nói trên, cần phải áp dụng những biện pháp giáo dục, làm cho mỗi người dân đều quen biết với vấn đề lãnh đạo, và điều này còn chính yếu hơn nữa, làm cho số người thấu triệt vấn đề lãnh đạo quốc gia càng đông bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Bởi vì, có như thế, những người lãnh đạo mới không bao giờ bị tiêu diệt hết được. Tiêu diệt người lãnh đạo là mục đích đầu tiên và chính yếu của các quốc xâm lăng.
Bản chất của một chính thể chuyên chế và độc tài là giữ độc quyền lãnh đạo quốc gia cho một người hay một số rất ít người, để cho sự thấu triệt các vấn đề căn băn của quốc gia trở thành, trong tay họ, những lợi khí sắc bén, để củng cố địa vị của người cầm quyền.
Riêng về dân tộc chúng ta, chắc chắn rằng sự kháng cự của chúng ta đối với sự xâm lăng của Tây phương sẽ mãnh liệt hơn bội phần nếu trước đó, Nhà Nguyễn, thay vì lên án tất cả những người bàn về quốc sự đã nuôi dưỡng được tinh thần tự do và độc lập của mỗi người và phát huy ý thức quốc gia và dân tộc trong nhân dân.
Ngược lại, mấy lần dân tộc thắng được ngoại xâm, từ nhà Trần đánh đuổi Mông Cổ, đến Nhà Lê đánh quân Minh và Quang Trung chiến thắng Mãn Thanh, đều nhờ ở chỗ các nhà lãnh đạo đã khêu gợi được ý chí tự do và độc lập của toàn dân.
Nếu bây giờ chúng ta chưa có ý thức rõ rệt chính thể ấy phải như thế nào, thì ngay bây giờ chúng ta có thể quan niệm được rằng chính thể đó không thể là một chính thể chuyên chế hay độc tài được. Đó là một thái độ rất rõ rệt.
Vì sao mà trong 900 năm, chúng ta đi dọc theo bờ biển từ Bắc chí Nam, mà không lúc nào chúng ta bị sự quyến rũ của trùng dương, đến mức vượt biển tìm đất sống ?
Qua luận điểm này tác giả xác quyết vai trò tối quan trọng của ba triệu Người Việt hải ngoại đang sinh sống khắp mọi nước trên thế giới. Chúng ta sẽ bàn về vai trò đặc biệt của khối đồng bào hải ngoại đối với vận mệnh dân tộc trong một tài liệu riêng.
Cơ sở hạ tầng vô tổ chức.
Phần lớn đất mới chiếm cứ, trên đó dân cư thưa thớt, tổ chức xã hội chưa có, tập quán cổ truyền của dân tộc chưa cố định trong đời sống thường ngày của dân chúng, ý thức quê hương xứ sở chưa ăn rễ vào khung cảnh mới, là một nhược điểm trên thân thể quốc gia, về phương diện quốc phòng. Đó là những nơi mà kẻ xâm lăng đánh vào trước hết, bởi vì họ cũng ý thức rằng, sức kháng cự của một lớp dân chúng chưa mọc rễ vào địa phương chắc chắn sẽ không đảng kể.
Vì vậy mà, miền Nam dưới Triều Nguyễn, đã trở thành một vùng hiểm địa cho toàn lãnh thổ.
Những cái vốn của lịch sử
Dư­ới thời Pháp thuộc, chúng ta phải trải qua một quá trình Tây phương hóa bắt buộc chỉ có lợi cho thực dân Pháp. Sau khi người Pháp ra đi thì xã hội của ta cũng tan rã. Thêm vào đó là sự gián đoạn trong vấn đề lãnh đạo quốc gia.
Quan niệm quét sạch tàn tích trước, để xây dựng tương lai là một quan niệm ấu trĩ của quần chúng, không được huấn luyện về ý thức chính trị. Không người lãnh đạo nào, kể cả những người cách mạng cuồng nhiệt nhất, có quyền nuôi một ý tưởng như vậy. Bởi vì không có một hành động nào mà sát hại một dân tộc bằng hành động quét sạch tàn tích trước để xây dựng tương lai, vì như thế có nghĩa là không bao giờ chúng ta xây dựng được một kho tàng kinh nghiệm để làm hậu thuẫn cho sự lãnh đạo quốc gia.
Vấn đề chính cho dân tộc là vấn đề phát triển.
Như chúng ta đã biết, vấn đề thiết yếu mà dân tộc chúng ta cần phải giải quyết trong giai đoạn này là công cuộc phát triển dân tộc bằng cách Tây phương hóa.
Các nhà lãnh đạo miến Bắc, khi tự đặt mình vào sự chi phối của Trung Cộng, đã đặt chúng ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của chúng ta, mà lại còn đe dọa đến sự tồn tại của dân tộc.
Sở dĩ, tới ngày nay, sự thống trị của Trung Cộng đối với Việt Nam chưa thành hình, là vì hoàn cảnh chính trị thế giới chưa cho phép, và sự tồn tại của miền Nam dưới ảnh hưởng của Tây phương là một trở lực vừa chính trị vừa quân sự cho sự thống trị đó. Giả sử mà Nam Việt bị Bắc Việt thôn tính, thì sự Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian.
Ba nhược điểm:
Tác giả phác thảo một cuộc kiểm tra về các nhược điểm cho vấn đề phát triển dân tộc:
Một là dân số tương đối ít: Cái vốn nhân lực của chúng ta cũng là đáng kể.
Nhược điểm thứ hai là thiếu tính khí. Bản tính của người Việt Nam cần cù và chịu khó, và bẩm chất rất là thông minh. Sự khiếm khuyết về tính khí không phải là một trở lực bởi vì đó là một đức tính mà giáo dục có thể đào tạo được, trong khi khiếu thông minh là một thiên tính. Sự khiếm khuyết về tính khí do nhiều nguyên nhân lịch sử gây ra, trong số đó có những yếu tố mà chúng ta đã nhắc đến trong đoạn trên đây về vấn đề Nam tiến của dân tộc.
Nhược điểm thứ ba của cái vốn nhân lực của chúng ta là sự vô tổ chức do thiếu tinh thần sống tập thể là hậu quả của cuộc Nam tiến. Đó là một nhược điểm vô cùng tai hại, bởi vì tập thể quốc gia cần đòi hỏi ở người dân một tinh thần tập thể mà không ai hun đúc cho họ trong mấy thế kỷ.
Tính cách thiết yếu của các tổ chức quần chúng.
Không có tổ chức quần chúng việc lãnh đạo quốc gia không làm sao thực hiện được. Nhân dân không biết hướng mà đi và người lãnh đạo không làm sao hướng dẫn quần chúng được.
Tổ chức quần chúng là một tổ chức gồm những người làm cùng một nghề, hoặc cùng làm việc chung tại một vị trí, hoặc những ng­ời cùng đeo đuổi một mục đích xã hội, văn hóa hay thể thao, hoặc những người cùng một quyền lợi kinh tế.
Vấn Đề Kinh Tế:
Tác giả bàn đến vấn đề tài nguyên, tăng lợi tức đầu người và việc đóng góp trang bị kỹ nghệ.
Lại tâm lý thuộc quốc.
Tâm lý thuộc quốc bắt nguồn từ hai sự kiện. Tương quan lãnh thổ và dân số giữa hai quốc gia là một nguyên nhân tự ty mặc cảm. Sự lệ thuộc của Việt Nam đối với văn hóa Tàu là một lý do khác. Tương quan lãnh thổ và dân số là hai điều kiện vật chất hiển nhiên khó thay đổi được. Tuy nhiên, trong khung cảnh chính trị của thế giới ngày nay, sự bang giao giữa Việt Nam và Trung Hoa không còn nằm trong khuôn khổ xưa nữa và không còn là một sự kiện chỉ liên quan đến hai quốc gia.
Như thế thì, nếu chúng ta có một sự lãnh đạo sáng suốt để bảo đảm công cuộc phát triển dân tộc, thì cơ hội, đương nhiên sẽ đến với chúng ta để giải quyết một vấn đề đã đặt ra cho dân tộc từ một ngàn năm nay, và hai lần Lý Thường Kiệt và Nguyễn Huệ đã cố tìm giải pháp: Cởi bỏ cho dân tộc tâm lý thuộc quốc đối với Trung Hoa.
Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo cộng sản Bắc Việt không tỏ ra ý thức tính cách quan trọng của cơ hội này.
 
PHẦN IV
MỘT LẬP TRƯỜNG THÍCH HỢP VỚI CÁC NHẬN XÉT TRÊN
Vấn đề lãnh đạo
Bộ máy lãnh đạo của một quốc gia được ấn định bởi chính thể lựa chọn. Sự lựa chọn chính thể lại tùy thuộc ở quan niệm về vấn đề lãnh đạo. Khối cộng sản và khối Tự Do, ngày nay khác nhau, trên phương diện hình thức, ở chỗ một bên chủ trương chính thể độc tài đảng trị, một bên chính thể Dân Chủ Pháp Trị
Quan niệm lãnh đạo.
Lãnh đạo là duy trì trạng thái thăng bằng động tiến giữa quyền lợi ngắn hạn cá nhân của các phần tử của cộng đồng và quyền lợi dài hạn của cộng đồng. Sự phát triển của cộng đồng sẽ được bảo đảm nếu những nỗ lực duy trì trạng thái thăng bằng động tiến thành công.
Áp lực bành trướng của từ phương Bắc sẽ mãi mãi đè nặng và kìm hãm sự phát triển của dân tộc cho tới ngày nào mà chúng ta, như Lý Thường Kiệt và Nguyễn Huệ đã nuôi ý chí, tiêu diệt được sự đe dọa xâm lăng của Trung Hoa.
Tác dụng của lý thuyết Cộng Sản.
Tác giả đã biện luận mạnh mẽ như­ sau:
Trong tình thế chính trị chúng ta đang mục kích, sự qui phục thuyết cộng sản của các nhà lãnh đạo Bắc Việt, tự nó là một sự thần phục Trung Cộng, như các triều đại xưa của chúng ta thần phục Trung Hoa. Và sự thống trị bằng lý thuyết của Trung Cộng đối với Bắc Việt ngày nay, nếu không có các trở lực quốc tế, sẽ bội phần ác nghiệt hơn các sự thống trị mà nước Tàu đã dành cho chúng ta từ gần một ngàn năm.
Tình thế ngày nay là một cơ hội duy nhất để cho chúng ta thực hiện ý chí, của Lý Thường Kiệt và Nguyễn Huệ, cởi cái ách tâm lý thuộc quốc cho dân tộc. Nếu chúng ta lỡ cơ hội, sự lệ thuộc của dân tộc đối với Trung Hoa sẽ kéo dài nhiều ngàn năm nữa và cái khối Trung Hoa vĩ đại, của các lãnh tụ cộng sản, sẽ mang đến cho dân tộc cái họa diệt vong. Và sự qui phục thuyết cộng sản sẽ đương nhiên dọn đường cho dân tộc Việt Nam lệ thuộc văn hóa mới của Trung Cộng, bởi vì các nhà lãnh đạo cộng sản Bắc Việt đã chấp nhận một sự lệ thuộc tư tưởng.
Bộ máy lãnh đạo.
Tác giả đề nghị một mô thức bao gồm ba điều kiện dưới đây để bảo đảm sự điều hành thiết thực và ngắn hạn của bộ máy lãnh đạo.
- Phải bảo đảm một sự lãnh đạo quốc gia mở rộng, mục đích đào tạo nhiều người lãnh đạo.
- Phải bảo đảm sự kiểm soát người cầm quyền.
- Phải bảo đảm sự hữu hiệu của chính quyền.
Áp dụng vào Việt Nam.
Tác giả đề nghị hệ thống lưỡng đảng và một Thượng Hội Đồng Quốc Gia, gồm những người có công trạng với tổ quốc và thấu triệt các vấn đề lãnh đạo quốc gia, mà số lượng sẽ phù hợp với hoàn cảnh.
Hai đảng chính trị có nhiệm vụ mở rộng vấn đề lãnh đạo và đào tạo nhiều người lãnh đạo.
Dưới bộ máy lãnh đạo, có bộ máy hành chính, bộ máy quân sự và bộ máy tổ chức quần chúng. Bộ máy lãnh đạo là cái não, bộ máy hành chính và bộ máy quân sự là chân tay, và bộ máy tổ chức quần chúng là cái vận tống để đưa bộ mảy lãnh đạo đến nhân dân và đưa nhân dân đến bộ máy lãnh đạo.
Các tổ chức quần chúng công nhân và nông dân.
Ở trên các tổ chức nghiệp đoàn và các tổ chức họp tác xã một bậc, về tính cách tinh vi của tổ chức và kỹ thuật chuyên môn khá cao, mà sự điều khiển các tổ chức này sẽ đòi hỏi, có các tổ chức hỗ tương bảo hiểm. Bảo hiểm về bệnh hoạn, bảo hiểm về tai nạn lao động, bảo hiểm về trâu bò, bảo hiểm về sinh sản và về già cả. Tất cả các tổ chức tương hỗ bảo hiểm nhằm mục đích bảo vệ trên nhiều phương diện và bằng nhiều hình thức quyền lợi cá nhân của các phần tử của tập thể, đồng thời phát huy tinh thần tập thể của cá nhân.
Tác giả đã đề ra mọi kế hoạch bao quát cho hầu hết mọi sinh hoạt của quốc gia:
Giáo dục quần chúng.
Các chương trình giáo dục quần chúng là những khí cụ cần thiết và hữu hiệu để hậu thuẫn cho công cuộc Tây phương hóa ăn sâu và lan rộng trong dân chúng, như chúng ta đã biết.
Nghiệp đoàn Tây phương.
Tổ chức nghiệp đoàn là một yếu tố quân bình quan trọng trong bộ máy quốc gia.
Tổ chức quần chúng nông thôn.
Các tổ chức quần chúng quan trọng nhất của chúng ta về số lượng là các tổ chức quần chúng nông thôn. Theo số ước lượng, quần chúng nông thôn của chúng ta chiếm một bách phân từ 70 đến 80 phần trăm dân số.
Lĩnh vực kinh tế-Quyền sở hữu.
Trong tất cả các yếu tố, xác nhận quyền lợi cá nhân của các phần tử trong một tập thể, thì quyền sở hữu là bảo đảm hữu hiệu và cụ thể nhất cho tự do cá nhân.
Điền địa.
Kỹ nghệ.
1.- Giới hạn bằng cách quốc hữu hóa những kỹ nghệ trực tiếp liên quan đến quốc phòng, và những kỹ nghệ thiết yếu cho đời sống hằng ngày của đa số nhân dân.
Lĩnh vực văn hóa.
Văn minh Tây phương và Đặc tính Dần tộc
Phần hấp thụ.
Kỹ thuật Tây phương.
Kỹ thuật Tây phương là một lề lối, đến với vấn đề tìm hiểu vấn đề giải quyết vấn đề và tổ chức vấn đề, mà tinh thần chính xác của văn minh Tây phương đã sáng tạo. Như thế thì, trong công cuộc thu thập kỹ thuật Tây phương, có hai công tác chính rất là rõ rệt. Một mặt thâu nhận kỹ thuật Tây phương trong mọi lĩnh vực. Một mặt phổ biến các kỹ thuật đã thâu nhận ra đại chúng.
Vấn đề chuyển ngữ.
Công việc phiên dịch các loại tài liệu ngoại quốc sang Việt ngữ vẫn là một công tác tối quan trọng. Còn có một lý do khác, thuộc về phạm vi chính trị, bắt buộc chúng ta phải thay thế Pháp ngữ bằng Anh ngữ trong vị trí ưu tiên ngoại ngữ ở nước ta vì Anh ngữ là ngoại ngữ thông dụng nhất trên thế giới.
Vượt qua các sáng tạo của kỹ thuật Tây phương.
Tác giả luôn nhắc lại một nguyên tắc cố định:
Chính xác về lý trí.
Ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức.
Các tiêu chuẩn giá trị.
Tác giả nhắc đến sự toàn cầu hoá qua tiêu chuẩn cộng đồng nhân loại.
Thực luyện tính khí.
Tiêu chuẩn giá trị đã có rồi, tính khí sẽ có cơ hội nảy nở. Đó là nhiệm vụ của tổ chức giáo dục chính danh và tổ chức giáo dục quần chúng.
Giáo dục quần chúng.
Kỹ thuật khoa học ngày nay đã cung cấp cho chúng ta những phương tiện giáo dục quần chúng hữu hiệu và mãnh liệt. Theo thứ tự thời gian phát minh, chúng ta có thể kể: Sách báo, phim ảnh, vô tuyến truyền thanh, vô tuyến truyền hình...
Tất cả đều là những dụng cụ sắc bén trong vấn đề giáo dục quần chúng.
KẾT LUẬN
TRỤ MÀ KHÔNG TRỤ.
Tác giả đã kết luận Bộ Tài Liệu bằng một giáo huấn thâm thúy:
PHẬT dạy ‘’TRỤ MÀ KHÔNG TRỤ’’. Thâm ý cao siêu của lời dạy trên bao trùm khắp vũ trụ. Sự tiến hóa của nhân loại đều căn cứ trên nguyên tắc nằm trong lời dạy trên. Có trụ mới có vi trí để mà tiến. Nhưng khi vị trí đã mất tác dụng, mà vẫn cứ cố bám để trụ vào đó thì mọi tiến hóa lại chấm dứt, và những kết quả đã thu hoạch được lại có thể bị mất.
Phải trụ vào cho đúng lúc mới tiến được. Và phải không trụ vào cho đúng lúc mới bảo đảm được vừa những thắng lợi đã chiếm, vừa con đường tiến cho tương lai.
Trong tình hình chính trị thế giới hiện nay và trong trình độ tiến hóa của nhân loại hiện nay, các vấn đề của dân tộc Việt Nam, trong thời kỳ này chỉ có thê tìm được một giải đáp nếu chúng ta trụ vào vi trí dân tộc.
Vị trí dân tộc mà chúng ta quan niệm là một vị trí dân tộc nằm trong khung cảnh thế giới, với tất cả các dây liên hệ tinh thần và vật chất cần phải có.
Các nhà lãnh đạo cộng sản ở miền Bắc đã trụ vào lý thuyết cộng sản trong thời kỳ tranh giành độc lập. Nhưng chúng ta cũng đã phân tích các lý do vì sao sự tiếp tục trụ đóng vào phương tiện cộng sản hiện nay, là một lối bế tắc cho sự nghiệp tiến hóa của dân tộc.
Nếu chúng ta không thức tỉnh thì một trong những nạn nhân đầu tiên của sự bành trướng nói trên sẽ là chúng ta. Chi tưởng tượng đến viễn cảnh đó cũng đủ cho chúng ta khủng khiếp.
Chúng tôi mong mỏi những phác thảo thô sơ trên đây đóng góp một phần nhỏ để gợi lên một đề nghị:
Kính xin các bậc thức giả để tâm hình thành một bộ phận học hỏi và nghiên cứu để đề xuất đường hướng đào tạo thiểu số lãnh đạo xứng danh cho cộng đồng người Việt hải ngoại và đồng bào quốc nội cho tương lai.
Trân trọng,
Phạm Bình Thuận, Ph.D.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM: 
MỘT VIÊN NGỌC QUÝ TRONG KHO TÀNG TƯ TƯỞNG,
MỘT  ĐÓNG GÓP LỚN VỀ SOI SÁNG VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN
                                                                       GS Tôn Thất Thiện 
 
I 
Từ  lúc tôi bắt đầu suy tư về tình trạng Việt Nam, vào những năm cuối giai đoạn Trung Học, 1942-1944, rồi qua những năm học hỏi, sưu tầm, giảng dạy ở Đai Học, từ năm 1947 cho đến nay, 2009, đã 85 tuổi, hưu trí được liệt vào hạng bố lão, tôi không ngớt suy tư, sưu tầm, nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề canh tân, cải tiến Việt Nam để đưa dân tộc ra khỏi tình trạng chậm tiến, khổ cực được dàn ra hàng ngày trước mặt mọi người.  
Danh từ ‘’canh tân’’ rất thông dụng trong thời Nho Học còn thịnh, nay được thay thế bằng những danh từ mới như: ‘’phát triển’’, ‘’hiện đại hóa’’….Sự thay đổi danh từ không làm thay đổi vấn đề căn bản của rất nhiều nước Á, Phi, Nam Mỹ Châu, trong đó có Việt Nam, là những nước ở tình trạng chậm tiến. ‘’Chậm tiến’’ là dẫm chân, thua xa về đời sống yên ổn, sung túc so với dân các nước Tây Phương, và so với tình trạng khoa học kỹ thuật của nhân loại trong giai đoạn hiện đại. Cho nên ‘’canh tân’’ cũng có nghĩa  là ‘’Tây phương hóa’’ và ‘’hiện đại hóa’’. 
Tôi  đã được học hỏi ở những Đại Học có  tiếng là đứng hàng đầu thế giới về các môn Chính Trị, Kinh Tế, Xã Hội Học, tôi đã đọc rất nhiều sách, báo, về vấn đề phát triển, tôi đã dành rất nhiều thì giờ quan sát, suy tư về vấn đề, và cũng đạt được một số nhận xét có thể coi là chính xác, nhưng tôi không mãn nguyện, trí tôi vẫn không yên, vì tôi chưa thấy thật rõ ràng và toàn bộ giải pháp dẫn đến sự phát triển mà tôi mong muốn. Điều này cũng có nghĩa là tôi chưa tìm ra được một cách tiếp cận hiệu nghiệm để thấy con đường đó. Mãi đến năm 2004 tôi mới được cái may mắn này. 
Năm 2004 là năm tôi được nghe nói đến, rồi  được đọc, tác phẩm Chính Đề Việt Nam. 
Trong trường hợp nào tôi đã được cái may mắn đó, tôi đã kể lại trong Đặc San về Lễ Tưởng Niệm Tổng Thống Ngô Đình Diêm năm 2004. Trong bài này tôi sẽ nhắm vào những điểm sau đây:  
1.- Nói lên  phản  ứng của tôi sau khi đọc hết tác phẩm này, trong tư thế là một học giả đã để nhiều thì giờ, nhiều công và tâm trí vào việc tìm hiểu vấn đề.
2.- Bàn về  một số  khía cạnh  nhưng không phân tách, nhận xét về  toàn bộ của tác phẩm, môt điều vượt khung cảnh của bài, thay vào đó, phần Phụ Bản  đăng nguyên văn chương đầu ‘’Bối cảnh của vấn đề’’ và chương cuối ‘’Kết luận: Trụ mà không trụ’’ để giúp các độc giả không có đủ thì giờ, hoặc không quen với lối hành văn lập luận trừu tượng, hoặc không có được tác phẩm trong tay, để đọc toàn bộ tác phẩm, ít nhứt có một ý niệm khá rõ ràng về những khía cạnh của vấn đề được các tác giả bàn đến, và tóm tắt, họ chủ trương  gì ? 
 
II 
Đọc xong Chính Đề Việt Nam, tôi thấy ngay tầm quan trọng của tác phẩm và tôi đã đề xướng tái bản nó. Nhưng, lúc đó, vấn đề gặp một số trở ngại về danh tánh của tác giả. Trong phần ‘’Phụ Giải về tái bản Chính Đề Việt Nam’’ trong Đặc San năm 2007, tôi có nói rằng ai là tác giả của tác phẩm cũng không quan trọng. Điều quan trọng là phổ biến rộng rãi một công trình đóng góp rất lớn của những người lãnh đạo Cộng Hòa Việt Nam Đệ I vào sự soi sáng vấn đề phát triển Việt Nam, để những ai cứu xét vấn đề có thêm dữ kiện để suy ngẫm. May thay, nay những trở ngại đó không còn nữa và tác phẩm đã được tái bản (dưới hình thức một tài liệu học tập nội bộ của những người thuộc Đệ Nhất Cộng Hòa, đúng như tác dụng nguyên thủy của nó).
Ở đây, tôi xin mở một dấu ngoặc để đính chính một điểm: trong ‘’Phụ Giải’’  tôi đã nói  lầm rằng Ông Lê Văn Đồng đã là Bộ Trưởng Bộ Canh Nông năm 1957 thật  ra, Ông là Đổng Lý Văn Phòng Bộ Lao Động, mà Bộ Trưởng là Ông Huỳnh Hữu Nghĩa. Hai ông này đều thuộc nhóm thân hữu của ông Ngô Đình Nhu. Nhân tiện cũng để ghi nhận rằng theo ‘’Lời Trần Tình’’ trong tái bản, tài liệu xuất bản năm 1964 ở Việt Nam được tái bản tại Hoa Kỳ năm 1988 ‘’do một nhóm thân hữu đã cùng sát cánh bên nhau trong nhiều năm, trong ấy phải kể các ông Cao Xuân Vỹ, Lê Văn Đồng, Phan Xứng, Đỗ La Lam, và một số thân hữu khác’’, và ‘’dù gặp muôn vàn khó khăn, nhóm chủ trương quyết định ấn hành tài liệu này nhằm khởi động sức phấn đấu của dân tộc trong giai đoạn cấp bách hiện nay’’.  Và để nói rõ và lớn lên một điều rất đúng đã được dân chúng Miền Nam truyền miệng rộng rãi vào khoảng năm 2007: (trong khi ‘’Xã Hội Chủ Nghĩa’’ đã chết nhưng chưa chôn) thì ‘’Việt Nam Cộng Hòa đã chôn nhưng chưa chết’’…. 
Đúng vậy. 
Với sự phổ biến rộng rãi của tác phẩm Chính Đề Việt Nam, những tư tưởng, suy luận trong đó, và nhứt là phương pháp tiếp cận đưa đến những giải pháp rất hay được trình bày trong đó, uy tín của chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa và sự đóng góp của những nhà lãnh đạo của chế độ sẽ được công nhận. Đối với các nhà lãnh đạo chính trị và những nhà nghiên cứu về vấn đề chậm tiến của các quốc gia thuộc vế khối gọi là ‘’Đệ Tam Thế Giới’’, tác phẩm này sẽ được coi như là một tác phẩm hết sức độc đáo, một đóng góp lớn, một viên ngọc quý trong kho tàng tư tưởng của nhân loại. Ở đây tưởng nên nhắc đến những người đóng góp lớn nhứt vào công trình này. 
‘’Lời Trần Tình’’ trong tái bản của tác phẩm tiết lộ: 
‘’Tập tài liệu bạn có trong tay là kết tụ những nghiên cứu và phân tích dựa trên kinh nghiệm lịch sử của Cố Vấn Ngô Đình Nhu cùng một số Phụ Tá thân cận nhằm giúp những Cán Bộ Quốc Gia nắm vững con đường phát triển dân tộc…‘’Một phần những đề tài này đã được thảo luận trong hàng ngũ cán bộ lãnh đạo dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa,…nhất là công cuộc xây dựng tầng lớp lãnh đạo có đủ khả năng gánh vác trọng trách trong giai đọan mới cần nhiều thời gian chuẩn bị, nên lược đồ xây dựng cho tương lai dân tộc bị gián đoạn từ đó…một số chiến hữu trung kiên đã cho in tập tài liệu này, nhưng tình hình chính trị bất ổn, và chính quyền quân sự lúc đó đang bị nhiều áp lực từ nhiều phía, vì vậy tập tài liệu quí hiếm này bị coi là di sản của ‘’chế độ cũ’’ nên ‘’bị chôn vùi và quên lãng.’’
Nhưng tác phẩm Chính Đề Việt Nam đã không bị quên lãng. Nó xuất hiện lại, và sự xuất hiện ấy là một nhắc nhở rằng Chế Độ Việt Nam Cộng Hòa, qua thời gian, tuy đã bị chôn vùi, nhưng vẫn chưa chết. Ngày nay nó lại tỏ ra vẫn còn sống mạnh và được hãnh diện thấy những cống hiến lớn của nó cho xứ sở được càng ngày càng  nhiều người ghi nhận và thẳng thắn công nhận. Trong đó, sự đóng góp về cách tiếp cận và đề xướng một giải pháp thích nghi và hữu hiệu vào vấn đề phát triển các quốc gia chậm tiến là một biểu chứng cụ thể.  
III 
Sau khi đọc xong Chính Đề Việt Nam, phản ứng đầu tiên của tôi là: ‘’Trời! Sao mình không được biết đến tài liệu này sớm hơn! Tất cả những gì mình tìm kiếm đều có trong đó. Mình đã mất gần 50 năm (1960-2007) tìm kiếm những gì mà đã có người Việt Nam đã viết lên rồi’’. Và chắc chắn đây cũng là trường hợp của rất nhiều người Việt Nam khác. Nói chung, Việt Nam đã mất đi 50 năm quý báu. Một phần không nhỏ vì những cuộc xáo trộn năm 1963 và những năm tiếp theo. Những tư tưởng chứa đựng trong Chính Đề Việt Nam chưa được phổ biến và áp dụng thì chế độ Cộng Hòa Đệ I bị lật đổ, với những hậu quả rất tai hại cho sự phát triển của Dân Tộc Việt Nam. 
Trong tư cách là một học giả chuyên nghiên cứu về vấn đề phát triển các quốc gia châm tiến, tôi không ngần ngại quả quyết rằng Chính Đề Việt Nam là tài liệu xuất sắc nhứt mà tôi đã được đọc trong suốt thời gian gần 70 năm qua. Không những nó sẽ giúp cho những người liên hệ với vấn đề phát triển các quốc gia chậm tiến thấy rõ tại sao các chương trình kế hoạch viện trợ các quốc gia này đã thất bại, mà còn cung cấp cho họ một lối tiếp cận có nhiều triển vọng thành công hơn. Riêng về Việt Nam, nó là tài liệu đầu tiên mà tôi được biết đến chỉ rõ con đường dẫn Việt Nam ra khỏi tình trạng bi đát của hơn 100 năm qua. Tác phẩm đã đặt đúng vấn đề và đã soi chiếu ánh sáng vào những yếu tố then chốt và riêng biệt của các quốc gia chậm tiến, và phân tách tường tận những yếu tố đó. Phần khác, tác phẩm cũng khảo xét tình trạng các quốc gia lớn đã thực nghiệm những chương trình phát triển, như Nga, Nhật, Trung Hoa, Ấn Độ, hoặc những quốc gia tương tự Việt Nam, và đưa ra những nhận xét rất hữu ích cho người Việt. Riêng về Nga, Trung Hoa, và Việt Nam những kết luận của Tùng Phong đưa ra lúc soạn tài liệu này, vào khoảng những năm 1957-1960, ngày nay, 2009, có thể nói là tiên tri
Những điều trên đây, từ điểm quan sát 2009 nhìn lui, tôi thấy rõ, vì đó là những điều tôi đã  được nghe, đọc, thấy, suy ngẫm, từ những năm 1949-1952, lúc tôi  học ở Trường L.S.E. (London School of Economics). Trường này được coi là lớn hạng nhất của Liên Hiệp Anh (Commonwealth). Tuy mang tên ngắn gọn là L.S.E., nhưng tên đúng của nó là ‘’London School of Economics and Political Science’’. Thực ra, nó được coi là một trường chuyên về Xã Hội Học. Dù sao Kinh Tế/Economics cũng là môn chính trong chương trình giảng dạy của nó. Do đó nó chú tâm về môn ‘’Economic Development’’ (Phát triển Kinh Tế) là một điều tự nhiên. Sự chú tâm này phản ảnh những lo âu của các giới chính trị kinh tế Tây phương trong những năm đầu sau Chiến Tranh Thế Giới II, phải đương đầu với vấn đề tái thiết và lập lại ổn định, và với những đòi hỏi cải thiện gấp rút đời sống của các quốc gia Á, Phi, Nam Mỹ. Thêm vào đó lại khởi phát một cuộc tranh chấp giữa Hoa Kỳ và Nga Sô trong một chiến tranh lạnh bao trùm thế giới.  
Hậu quả của những chuyển biến trên đây là thế giới cần một sự phát triển kinh tế quy mô  và nhanh chóng. Lúc đó, chỉ Hoa Kỳ có  khả năng trợ giúp các quốc gia khác đồng minh đương nhiên vì đồng chế độ, hoặc thuộc khối  ‘’không liên kết’’ cần lôi kéo về phía mình vì Hoa Kỳ là quốc gia duy nhất không bi tàn phá, kinh tế phát triển vượt bực để phục vụ nhu cầu không những của mình, mà của toàn thể khối Đồng Minh. Phần khác, Hoa Kỳ cũng cần duy trì sản xuất kinh tế để tránh những xáo trộn do một cuộc giảm sút kinh tế lớn gây ra.  
Vì  những lý do nêu trên, các Đại Học, các học giả trứ danh về kinh tế học, các chuyên gia kinh tế, các giới kinh tế-tài chánh, các giới truyền thông, chính trị gia, nhất là ở Hoa Kỳ, đổ xô vào việc nghiên cứu, bàn luận, đề xuất lý thuyết về phát triển. Các Chính Phủ Hoa Kỳ đưa ra những chương trình ngoại viện lớn, các kế hoạch này được Quốc Hội thông qua dễ dàng và được dân chúng ủng hộ rộng rãi.  
Có  hai loại ngoại viện:
1.- Viện trợ các quốc gia đồng minh cũ, thuộc Tây Âu.
2.- Các quốc gia chậm tiến, hoặc thuộc ảnh hưởng Hoa Kỳ, hoặc ‘’không liên kết’’. Loại đầu là Chương Trình Marshall, loại thứ hai là ‘’Point IV’’ Điểm thứ tư, được gọi như vậy vì đó là điểm thứ tư trong môt bài diễn văn lớn của Tổng Thống Truman năm 1947 tuyên bố quyết tâm Hoa Kỳ trợ giúp các quốc gia chậm tiến. 
Chương trình Marshall không quan hệ gì đến các nước chậm tiến vì nó nhằm trợ giúp các quốc gia Tây  Âu tái thiết, không thuộc về lãnh vực phát triển, nên không bàn đến ở đây. Chương trình ‘’Point IV’’ Điểm thứ 4, trái lại, không những nói lên quyết tâm Hoa Kỳ trợ giúp các quốc gia chậm tiến phát triển, cung cấp phương tiện dồi dào, mà vạch ra cả một  lý thuyết, và các phương thức thực hành cuộc phát triển này. 
Những điều chứa đựng trong ‘’Point IV’’ Điểm IV của Tổng Thống Truman  này là thâu tóm quan điểm của những tư tưởng gia Hoa Kỳ về vấn đề phát triển. Theo quan niệm này, lý do chính của sự chậm tiến của các quốc gia chậm tiến là họ thiếu vốn và ‘’know how’’ (kỹ thuật). Nếu  các quốc gia này được cung cấp dồi dào cho không, hay cho vay nhẹ lãi vốn, và kỹ thuật qua các chương trình cung cấp chuyên viên, huấn luyện người bản xứ tại chỗ hay trong các Trường Đại Học Hoa Kỳ thì trong một thời gian ngắn, họ sẽ phát triển, trở nên giàu có, không bị cộng sản quyến dỗ nữa. Qua thực nghiệm sau mấy chục năm áp dụng, nó tỏ ra không hiệu nghiệm, không đạt được mục đích. Vì sai lầm.  
Trước hết là về thực chất của vấn đề. Như  Tùng Phong nhấn mạnh và nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần, muốn giải quyết một vấn đề, phải thấu triệt vấn đề đó. Vấn đề Việt Nam là một vấn đề liên quan đến cộng đồng và lãnh đạo Việt Nam: ‘’…các biến cố xảy ra ở Việt Nam từ hơn hai mươi năm nay [1940-1960] là một ví dụ cụ thể minh xác tính cách thiết yếu của sự hiểu biết vấn đề cộng đồng cần phải giải quyết đối với đa số lãnh đạo….’’ 
‘’Đối tượng của quyển sách nầy là tìm xem vấn đề cần phải giải quyết của cộng-đồng  Quốc-Gia Việt Nam trong thời kỳ nầy là vấn đề gì’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 42). Và tác giả đã giải thích tường tận, chi tiết, vấn đề sống còn của Việt Nam, trong hoàn cảnh đặc biệt của Việt Nam, là phát triển để thoát khỏi tình trạng thua kém về khoa học kỹ thuật bằng một cuộc Tây phương hóa, ‘’không e dè, không rụt rè, không ngần ngại’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 76). Cuộc Tây phương hóa đó là ‘’một cuộc Tây phương hóa tự ý muốn, do đó, có đường hướng và có mục đích’’. Nó cũng phải là một cuộc Tây phương hóa toàn diện… nghĩa là trên lĩnh vực quân sự, chính trị, xã hội, và theo đó kinh tế và văn hóa’’ (Chính Đề Việt Nam, trang144) 
Về mục đích của công cuộc Tây phương hóa, Tùng Phong viết: ‘’Chúng ta sẽ chủ động cuộc Tây phương hóa nầy và sẽ đưa nó đến một mức độ đủ cao để xã hội chúng ta tìm được những tiêu chuẩn giá trị mới khả dĩ tạo cho nó một trạng thái điều hòa mới’’. (Chính Đề Việt Nam, trang 137) Câu ngắn ngủi này chứa đựng những ý niệm căn bản rất  độc đáo của tác phẩm. Các ý niệm này sẽ được bàn đến trong phần dưới đây: ‘’Tây phương hóa, ‘’chủ động’’, ‘’mức độ cao’’, ‘’tiêu chuẩn giá trị mới’’, ‘’trạng thái điều hòa’’…Cần nhấn mạnh rằng tác phẩm đề cập đến nhiều ý niệm độc đáo khác, nhưng không thể bàn trong bài này vì quá nhiều. 
Vấn  đề cần được đặt trong bối cảnh riêng biệt của nó. Việt Nam có ba bối cảnh:
1.- Tình hình chính trị thế giới.
2.- Các nước trong thế giới đang ứng phó với một thử thách tương tự. 
3.- Các Quốc Gia thuộc về một khối văn hóa với Việt Nam: Các nước láng giềng ở Đông Á và Đông Nam Á (Chính Đề Việt Nam, trang 43).
Cuối cùng là phương thức nghiên cứu. Về điểm này, tính chất vô tư và khoa học của công trình nghiên cứu cần được bảo đảm, nên tác giả  Tùng Phong đã cương quyết chọn vị trí  lịch sử, vì ‘’thực tế lịch sử không có thể phủ nhận được. Và trên nền tảng vững chắc đó mới có thể lấy óc khoa học mà suy luận không sợ phạm vào những lỗi lầm căn bản’’. Tác giả cũng nhấn mạnh rằng không bao giờ tác giả đứng vào các vị trí triết lý, tôn giáo, và lý thuyết vì ‘’đó là những lĩnh vực mà sự đối chọi giữa hai chủ trương trái ngược có thể kéo dài vô cùng tận’’. Bất cứ trong lãnh vực nào (chính trị, văn hóa và kinh tế) ‘’sự nhận xét phân tách và suy luận của tác giả đều căn cứ trên những sự kiện lịch sử và để một bên các lý thuyết...để tránh tất cả những sự biện luận không thiết thực và do đó không thích hợp với mục đích của quyển sách’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 45-46). 
 
IV 
Cách tiếp cận nêu trên cần thiết để bảo đảm sự lựa chọn những giải pháp thích nghi cho việc thực hiện những mục đích mong muốn. Những mục đích này minh định do vị trí của Việt Nam trong thế giới ngày nay, vừa trong lãnh vực địa dư, vừa trong lãnh vực tiến hóa chung của nhân loại. Cùng với những điều kiện nội bộ riêng cho Việt Nam, các điểm này chi phối mọi đường lối chính trị của chúng ta ‘’ít lắm là vài thế kỷ’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 68). 
Những mục đích tùy thuộc vị trí quốc tế  hiện tại của Việt Nam do các điểm sau đây minh định:
1.- Việt Nam là một nước nhỏ kém mở mang.
2.- Theo truyền thống văn hóa, Việt Nam thuộc vào xã hội Đông Á.
3.- Việt Nam thuộc vào khối các nước Á Châu vừa thoát khỏi ách thực dân Đế quốc.
4.- Việt Nam phải cần Tây phương hóa như tất cả các nước không thuộc khối Tây phương để:
a.- Tồn tại, bảo vệ độc lập.
b.- Phát triển đời sống kinh tế hầu xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. (Chính Đề Việt Nam, trang 68) 
Trong nhãn quan của Tùng Phong, trong hai mục đích này, ‘’Độc lập không phải là mục đích chính’’. Phải  độc lập vì độc lập là ‘’điều kiện tiên quyết và thiết yếu khẩn thiết để thực hiện cho được cuộc Tây phương hóa…Có độc lập, chúng ta mới chủ động được vận mạng của chúng ta và lãnh đạo được cuộc Tây phương hóa mà sự thành hay bại quyết định tương lai của chúng ta trong mấy thế kỷ sắp tới đây’’ (Chính Đề Việt Nam, trang. 158).
Vấn đề chính của Dân Tộc Việt Nam là vấn đề phát triển, và cuộc phát triển đó thực hiện qua một cuộc Tây phương hóa. Sự thành bại của cuộc Tây phương hóa này quyết định tương lai của Việt Nam, không những gần, mà trong mấy thế kỷ sắp đến. Cho nên vấn đề được bàn đến trong Chính Đề Việt Nam là vấn đề phát triển Tây phương hóa. Vấn đề độc lâp được bàn đến, và rất chi tiết, như là một vấn đề dính liền với nguy cơ tái lệ thuộc Trung Hoa nếu Việt Nam chọn con đường cộng sản trong công cuộc phát triển.
Theo Tùng Phong ‘’công cuộc phát triển Dân Tộc bằng cách Tây phương hóa là một công cuộc liên hệ đến sự sống còn của Dân Tộc…một sự kiện lịch sử dĩ nhiên, không thể tránh được, và ngoài công cuộc phát triển ấy ra, Dân Tộc chúng ta không còn một lối thoát thứ hai’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 134-35).  
Kháí niệm ‘’Tây phương hóa’’ là khái niệm then chốt của tác phẩm này nên chúng ta cần minh định nghĩa của danh từ và nội dung của khái niệm để tránh ngộ nhận. Danh  từ ‘’Tây phương hóa’’, ‘’Westernization’’ (theo Anh văn), hay ‘’Occidentalisation’’ (theo Pháp văn) là một danh từ thông dụng trong giới học giả và báo chí Tây phương trong những năm trước 1950. Nhưng các giới chính trị, trí thức Á Đông, đặc biệt là Ấn Độ và Trung Hoa, chống việc sử dụng danh từ này vì họ cho rằng nếu Á Đông thua kém Tây phương về kỹ thuật khoa học họ lại hơn Tây phương về phương diện triết lý, tinh thần, và nếu họ muốn kỹ nghệ hóa họ không muốn mang luôn văn hóa Tây phương. Do đó, một danh từ khác, trung lập hơn, được dùng. Đó là ‘’hiện đại hóa’’. Cho nên, trong bài này, ‘’Tây phương hóa’’ nên hiểu là ‘’hiện đại hóa’’. Thật ra, danh từ này rất sát nghĩa khái niệm ‘’Tây phương hóa’’ của Tùng Phong. 
‘’Tây phương hóa’’, theo Tùng Phong, là thế nào ?  
‘’Tây phương hóa là việc thâu nhận các kỹ thuật, lối suy luận và nhiều tập quán của Âu-Mỹ, không làm cho chúng ta mất được bản chất của Dân Tộc...Bản Chất Dân Tộc chúng ta sẽ bộc lộ ra trong các sáng tạo của chúng ta, và phương pháp sáng tạo của chúng ta, khi nào chúng ta đã chủ động được các phương tiện và phương pháp sáng tạo Tây phương. Và đây là mục đích chính của công cuộc Tây phương hóa mà chúng ta đang theo đuổi…chúng ta cần phải dốc hết nỗ lực vào công cuộc ấy, không e dè, không rụt rè, không ngần  ngại’’ (Chính Đề Việt Nam, trang76). 
Hai điểm then chốt trong ý niệm trên là ta phải chủ động công cuộc Tây phương hóa, và phải đi đến mức sáng tạo. Cuộc Tây phương hóa này phải là một cuộc Tây phương hóa tự ý, không ép buộc, vì ‘’nếu chúng ta không tự ý Tây phương hóa, thì trước hết ta sẽ mất chủ quyền định đoạt vận mạng của Dân Tộc chúng ta. Sau đó cuộc Tây phương hóa vẫn sẽ thực hiện đối với chúng ta, nhưng không phải chúng ta lãnh đạo và hướng dẫn. Một cuộc Tây phương hóa không được hướng dẫn sẽ mang đến sự tan rã của xã hội chúng ta…Như vậy, giữa hai thái độ tự ý Tây phương hóa và bắt buộc Tây phương hóa thế nào cũng phải lựa chọn thái độ tự ý Tây phương hóa’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 166). 
Điểm thứ hai, đi đến mức sáng tạo, một mức cao, cũng là một đặc điểm của cuộc Tây phương hóa mà Tùng Phong chủ trương. Theo ông, ‘’công cuộc Tây phương hóa chỉ hữu hiệu khi nào thực hiện đúng đến mức độ cao’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 153).  
Thế  nào là ‘’mức độ cao ?’’ Ông ta giải thích: 
‘’Tây phương hóa đến mức độ cao có nghĩa là Tây phương hóa đến khi nào chúng ta chế ngự được khả năng sáng tạo khoa học của Tây phương. Cho đến khi nào chưa ra khỏi giai đoạn hấp thụ khoa học và kỹ thuật Tây phương, thì chúng ta vẫn chưa thoát lên đến mức độ cao. Chỉ khi nào chúng ta sử dụng được, chẳng những là khoa học và kỹ thuật Tây phương, mà lại còn cả phương tiện sáng tạo khoa học và kỹ thuật, thì chúng ta mới đạt đến mức độ đủ cao trong công cuôc Tây phương hóa…Chỉ khi nào các chuyên viên của chúng ta, sau khi hấp thụ được các kỹ thuật và khoa học của ngành mình, lại ý thức rõ rệt rằng chỉ vừa bước đi qua một giai đoạn sơ khởi, và còn cần nỗ lực để đạt đến chỗ chế ngự được khả năng sáng tạo trong ngành của mình, thì lúc bấy giờ cuộc Tây phương hóa của chúng ta mới đi đúng đường và có hy vọng thành công’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 172) 
‘’Chế ngự khả năng sáng tạo’’ là một ý niệm trừu tượng, tế nhị, có thể gây hiểu lầm rằng ‘’Tây phương hóa’’ đồng nghĩa với làm mất ‘’bản sắc Dân Tộc’’. Chúng ta sẽ bàn về vấn đề này ở đoạn sau. Ở đây cần nhấn mạnh rằng Tùng Phong rất ý thức điều này, nên ông ta đã đưa ra những giải thích rất chi tiết và rõ ràng. Ông viết: 
‘’Một cuộc Tây phương hóa, đến mức độ cao, chỉ thực hiện được khi nào sự hấp thụ kỹ thuật Tây phương được thành tựu đến mức độ người hấp thụ chế ngự kỹ thuật đó, để đến phiên mình sáng tạo. Và muốn chế ngự được kỹ thuật đó, trước tiên  phải thấu triệt được những nguyên lý của khả năng sáng tạo và luyện được cách sử dụng khả năng đó’’ (Chính Đề Việt Nam, trang. 463-464). 
Có một quan niệm thông thường cho rằng Tây phương mạnh nhờ khoa học của họ, và nếu chúng ta học được khoa học của họ thì chúng ta cũng mạnh như họ. Nhưng, thật ra, nếu chúng ta học được khoa học của Tây phương thì chúng ta cũng chưa mạnh bằng Tây phương. Bởi vì: ‘’khoa học cũng như tất cả các sáng tạo của Tây phương là những hiện tượng nhìn thấy được của kỹ thuật Tây phương, chớ chưa phải là kỹ thuật của Tây phương. Các sáng tạo kỹ thuật là sóng, nhưng chính kỹ thuật mới là gió. ‘’Kỹ thuật Tây phương đẻ ra khoa học, chớ không phải khoa học đẻ ra kỹ thuật. Như vậy thì sự thâu thập khoa học chưa đủ để giúp cho người thâu thập chế ngự được kỹ thuật Tây phương’’. (Chính Đề Việt Nam, trang 463-464)  
Vậy nguyên do của khả năng sáng tạo của kỹ thuật Tây phương là cái gì ?
Tùng Phong cho rằng câu hỏi này ‘’vô cùng quan trọng cho công cuộc Tây phương hóa’’. Có trả lời được, chúng ta mới thỏa mãn được một điều kiện của công cuộc Tây phương hóa đến mức đô đủ cao. Điều kiện thứ hai là thực hiện được những điểm mà câu hỏi sẽ nêu lên: (Chính Đề Việt Nam, trang 463-464)  
Và  giải đáp mà Tùng Phong đưa ra là một giải  đáp có thể nói là độc đáo, mới, mà  riêng tôi, xin thú thực là chưa hề được nghe nói đến: Kỹ thuật Tây phương hùng mạnh nhờ hai đức tính, xin nhấn mạnh đức tính, vô  cùng quý báu:
1.- Chính xác về lý trí.
2.- Ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức.
Tùng Phong nhấn mạnh rằng hai đức tính này là hai đức tính của văn minh cổ Hy Lạp và La Mã. Nó là nguồn sinh lực của kỹ thuật Tây phương. Nó có trước mọi phát minh khoa học và đã phát sinh ra khoa học. Và nó phải có nếu ta muốn đạt đến mức độ sáng tạo như Tây phương. Một sự thu thập khoa học Tây phương dù có mười phần kết quả cũng vẫn chưa giúp cho ta chế ngự được kỹ thuật Tây phương. ‘’Một công cuộc Tây phương hóa chỉ chú trọng vào sự thu thập khoa học Tây phương sẽ mãi mãi là một cuộc Tây phương hóa không đúng mức, và cộng đồng nào chỉ nhắm vào mục đích thu thập khoa học Tây phương thì, mãi mãi, sẽ lệ thuộc vào các sáng tạo kỹ thuật của Tây phương, và không khi nào lên đến mức độ sáng tạo như Tây phương’’. (Chính Đề Việt Nam, trang 468). 
Vấn  đề đã trở nên rất rõ: Nếu chúng ta muốn chế ngự được kỹ thuật Tây phương chúng ta phải rèn luyện để có được hai đức tính: 
1.- Chính xác về lý trí.
2.- Ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức. 
Muốn rèn luyện hai đức tính trên đây, ‘’chúng ta phải chỉnh đốn đời sống hằng ngày cho ngăn nắp và minh bạch, và ngôn ngữ của chúng ta cũng phải được chỉnh đốn cho ngăn nắp và minh bạch...đời sống hằng ngày của chúng ta, và ngôn ngữ hằng ngày của chúng ta sẽ trở thành những dụng cụ sắc bén để giúp cho chúng ta rèn luyện chính xác về lý trí và ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức. Và ngôn ngữ đã chỉnh đốn lại trở thành một khí cụ suy luận để chúng ta soi thấu vũ trụ vật chất và vũ trụ tinh thần’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 468). 
Về vấn đề Tây phương hóa có làm mất bản sắc Dân Tộc, ‘’mất quốc hồn quốc túy’’ hay không, Tùng Phong nói: 
‘’Các Dân Tộc Tây phương đều sử dụng một kỹ thuật và tôn sùng một khoa học như nhau. Tất cả đều có một lối suy luận lấy sự chính xác của lý trí làm nền tảng. Và tất cả đều sống trong một khuôn khổ minh chiết như nhau sự sinh sống và ăn mặc đều như nhau thế mà họ vẫn khác nhau trong sáng tác. Như vậy là bản chất Dân Tộc họ vẫn giữ…Biết như thế rồi chúng ta mới thấy tánh cách vô ích của sự nơm nớp lo sợ mất quốc hồn và quốc túy…’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 76) 
Phần khác, ‘’… nếu thực sự một cuộc Tây phương hóa tự ý và có lãnh đạo không làm tan rã xã hội lại có thể làm mất bản chất Dân Tộc, thì chúng ta có thể quả quyết rằng một cuộc Tây phương hóa bắt buôc và không hướng dẫn, [không làm] tan rã xã hội, chắc chắn sẽ làm mất mười lần hơn bản chất Dân Tộc của chúng ta.’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 166) 
 
V 
Trong những trang trên đây, ta thấy tác giả đề cập rất nhiều đến những danh từ như: ‘’xã hội’’, ‘’nỗ lực’’, ‘’rèn luyện’’, ‘’chế ngự’’, ‘’chỉnh đốn’’, ‘’đức tính’’,  ‘’lý trí’’, ‘’suy luận’’…Đây là những danh từ mang ý niệm trừu tượng thuộc về lãnh vực văn hóa. Điều này nói lên sự khác biệt căn bản của lối tiếp cận vấn đề của Tùng Phong với lối tiếp cận kinh tế, thống kê, chính trị của những học giả, chuyên gia chủ trương Point IV-Điểm 4 về vấn đề phát triển. Lối tiếp cận của Tùng Phong là một lối tiếp cận chú tâm vào các khía cạnh xã hội và tâm lý, nghĩa là văn hóa. Đây là một lối tiếp cận đòi hỏi môt sự thấu triệt hoàn cảnh và tâm lý của dân tộc muốn phát triển, một điều rất khó khăn và đòi hỏi nơi người nghiên cứu, cũng như nơi người thực hành, những kiến thức rất sâu rộng, và một khả năng dùng linh tính mà tâm lý học gọi là ‘’introspection’’, một khả năng mà người ngoại quốc không có, mà ít người bản xứ dùng đến trong việc nghiên cứu vì cho rằng nó ‘’không khoa học’’. Nhưng, nếu phối hợp với kỹ thuật ở mức độ cao, như đã trình bày ở trên, nó là lối tiếp cận hữu hiệu nhất, và đưa đến sự phát giác những giải pháp độc đáo và thích nghi nhứt, như ta sẽ thấy dưới đây.  
Mục tiêu của Tây Phương hóa là phát triển, và như đã nói ở trên, phát triển để có điều kiện bảo đảm sự tồn tại và độc lập, và xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Công cuộc chính của phát triển là xây dựng lại xã hội Việt Nam sau 80 năm thống trị của người Pháp. 
Cuộc thống trị đó đã để lại một di sản mà  ngay nay dân Việt đang còn phải mang những hậu quả  rất tai hại: Ba gánh nặng nhứt là:
1.- Một công cuộc hóa  Tây phương bắt buộc.
2.- Một xã hội tan rã.
3.- Một sự gián đoạn trong vấn đề lãnh đạo. 
Công cuộc Tây phương hóa bắt buộc làm cho chúng ta mất tin tưởng vào các giá trị tiêu chuẩn cũ, và miễn cưỡng thâu thâp nền văn minh mới. Vận mạng của chúng ta không phải do chúng nắm. Vì vậy, cuộc Tây phương hóa mà chúng ta phải chịu đựng từ môt thế kỷ nay là một cuộc Tây phương hóa bắt buộc, không mục đích, không được hướng dẫn’’. Dân chúng bị lôi cuốn vào một  phong trào Tây phương hóa, ‘’mà không hiểu Tây phương hóa để làm gì, Tây phương hóa đến mức nào là đủ, và Tây phương hóa sao là đúng’’. (Chính Đề Việt Nam, trang 268).
Tình trạng trên đây đã dẫn dắt đến sự tan rã của xã hội của chúng ta. Các giá trị tiêu chuẩn cũ đã mất hết hiệu lực, mà các tiêu chuẩn mới thì không có. Do đó, tín hiệu tập hợp các phần tử đã mất. ‘’Đó là một  điều vô cùng bất hạnh’’ vì chính là  lúc này, lúc ta cần nhiều nỗ lực liên tục của toàn dân và nhiều hy sinh lớn lao của mọi người, ‘’sự có một tín hiệu tập hợp vô cùng cần thiết để toàn dân trông vào và tin tưởng, mới có đủ nghị lực mà cung cấp cố gắng trong một hoàn cảnh khổ hạnh’’. (Chính Đề Việt Nam, trang 268) 
Về vấn đề lãnh đạo, chúng ta đã lâm vào một sự gián đoạn lãnh đạo ‘’đến một trình độ trầm trọng nhứt’’. Sự chuyển quyền không thực hiện được giữa lớp người trước và lớp người sau. Các bí mật [bí quyết] Quốc gia và bí mật [bí quyết] lãnh đạo đều mất. Thuật lãnh đạo không truyển lại được. Người lãnh đạo không có đủ, di sản dĩ vãng không bảo tồn được, văn khố thất lạc và bị cướp bóc. (Chính Đề Việt Nam, trang 268) Đặc biệt là sự thiếu hụt lãnh đạo này có môt ảnh hưởng tai hại: Sự điều hòa giữa thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh đạo để bảo đảm một trạng thái thăng bằng cần thiết cho sự ổn định và tiến lên của xã hội không còn nữa. 
Tái lập sự thăng bằng này là nhiệm vụ chính trong công cuộc phát triển, và nó được Tùng Phong cứu xét rất tường tận. Những tư tưởng rất mới mẻ, độc đáo và sáng suốt về vấn đề này là những đóng góp lớn vào sự soi sáng vấn đề phát triển của các nước chậm tiến. 
Theo nhận xét, rất đúng, của Tùng Phong, xã hội gồm hai khối: Thiểu số lãnh đạo, và đa số chịu lãnh đạo. Xã hội nào cũng có mâu thuẫn nội bộ, giữa những nhu cầu cá nhân và những nhu cầu của cộng đồng, giữa những nhu cầu ngằn hạn và những nhu cầu dài hạn của cộng đồng, giữa những mức độ đóng góp hy sinh mà lãnh đạo thấy cần và đa số chịu lãnh đạo chịu chấp nhận…Những mâu thuẫn này phải được điều hòa thì xã hội mới ổn định và tiến được. Tùng Phong đã phân tách vấn đề một cách chi tiết như sau: 
‘’Một cộng đồng trong toàn bộ gồm nhiều phần tử cá nhân hợp thành, chia làm hai khối, thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh đạo. Thiểu số lãnh đạo có trách nhiệm với vận mạng của cộng đồng.
Cộng đồng có tồn tại  mới bảo đảm được phát triển của cá nhân. Cộng đồng tồn tại nhờ cố gắng và hy sinh của cá nhân, tình nguyện hay cưỡng bách, đóng góp. Nhưng lý do của cuộc sống là sự thoả mãn ước vọng của cá nhân.
Nói một cách khác lý do của cuộc sống là lý do cá nhân. Mà điều kiện của cuộc sống là điều kiện cộng đồng. Vì thế cho nên, ngay trong bản chất đã có sự mâu thuẫn giữa quyền lợi của cộng đồng và quyền lợi của cá nhân trong cộng đồng. Một mâu thuẫn như thế thuộc vào loại mâu thuẫn lúc nào cũng có ở trong nội tâm của mọi phối hợp sáng tạo giữa hai lực lượng tương phản.
Cứu cánh của sự lãnh đạo là thực hiện một trạng thái điều hòa tuyệt đối giữa hai hình thức của một sự thăng bằng đồng tiến, nghĩa là hai lực lượng tương phản sẽ dựa nhau và kích thích nhau để tiến, thì toàn thể cộng đồng sẽ tiến triển. Nếu sự điều hòa được thực hiện dưới hình thức một sự thăng bằng tỉnh chỉ, nghĩa là hai lực lượng tương phản sẽ đóng khung và kềm giữ nhau, toàn thể cộng đồng sẽ mất đà tiến và trở thành trụ đóng. Nếu sự điều hòa không được thực hiện, cộng  đồng sẽ tan vỡ’’. (Chính Đề Việt Nam, trang 18) 
Những mâu thuẫn giữa hai quyền lợi cá nhân và cộng đồng có khi nặng, khi nhẹ. Trong những thời kỳ bình thường, cộng đồng không đứng trước một thử thách khó khăn, và không đòi hỏi sự đóng góp nhiều của cá nhân. Nhưng cũng có những thời kỳ mà cộng đồng phải đương đầu với một cuộc thử thách nghiêm trọng, và sự sống còn của cộng đồng đòi hỏi nhưng sự đóng góp to tát. Ngoài sự bảo vệ trật tự xã hội còn phải quy tụ những phương tiện vật chất và nhân sự vượt quá thông thường để đưa cộng đồng lướt qua các trở lực. 
Sự  mâu thuẫn khi nào cũng có. Nhưng trong trường hợp trầm trọng, trạng thái điều hòa rất khó thực hiện, sự tan vỡ của cộng đồng có thể đến bất cứ lúc nào, và trong thực tế, nó trở thành một vấn đề cho lãnh đạo vì ‘’sự mâu thuẫn giữa hai quyền lợi cộng đồng và cá nhân sẽ biến hình thành sự mâu thuẫn giữa thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh đạo, vì đa số lãnh đạo, nhân danh cộng đồng đòi hỏi sự đóng góp của  đa số chịu lãnh đạo’’ (Chính Đề Việt Nam, trang19) 
Sự mâu thuẫn càng ác liệt nếu đại đa số không có ý thức cộng đồng và không hiểu biết vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng. Trường hợp này dễ xảy ra trong các cộng đồng nghèo nàn về vật chất và ấu trĩ trong tổ chức. Đa số chịu lãnh đạo không được cộng đồng bảo đảm cho những cần thiết tối thiểu và sơ đẳng nên không có lý do tâm lý để biết đến cộng đồng, và mãi bận tâm giải quyết các vấn đề của đời sống hàng ngày, không có thì giờ để hiểu biết vấn đề của cộng đồng. 
Ở đây ta thấy rõ tầm quan trọng của lãnh đạo và sự tham gia tự ý của đại đa số. Trong thời kỳ bình thường có thể cưỡng bách đại đa số tôn trọng luật lệ của cộng đồng. Nhưng trong thời kỳ thử thách, uy tín vững chắc của một lãnh tụ, hay sự cưỡng bách bằng võ lực không thay thế được sự đóng góp có ý thức vào nhu cầu của cộng đồng. Điều kiện thiết yếu để thực hiện sự tự giác đóng góp như vậy là ‘’đa số chịu lãnh đạo phải ý thức cộng đồng và hiểu biết vấn đề cần giải quyết cần phải giải quyết của cộng đồng’’. Và có như vậy thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh đạo mới ‘’điều hòa và tạo cho cộng đồng sinh lực cần thiết để vượt qua các thử thách quyết liệt đang đợi chờ’’. (Chính Đề Việt Nam, trang 20) 
Cần nhấn mạnh ở đây rằng sự đa số chịu lãnh đạo cũng phải ý thức vấn đề của công đồng rất quan trọng vì như vậy nó mở rộng địa bàn xoay xở của thiểu số lãnh đạo cho họ tránh được nhiều lỗi lầm chiến thuật do sự tranh đấu gay go gây ra. Nhờ đó mà sự phối hợp giữa thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh đạo sẽ không sứt mẻ, và của các quyết định chiến thuật không mất hữu hiệu.  
Qua những điều vừa trình bày ở trên, ta thấy Tùng Phong coi vấn đề lãnh đạo là chính yếu, và, thực ra, Chính Đề Việt Nam là một tài liệu được soạn đặc biệt như là một tài liệu học tập để huấn luyện cán bộ cao cấp của chế độ về nghệ thuật trở thành những người ‘’lãnh đạo xứng danh’’. Tuy nhiên, như ta đã thấy, tài liệu này có một tầm quan trọng vượt xa không những chế độ Cộng Hòa I, mà ngay cả Việt Nam: Nó có giá trị một tài liệu học tập quý báu cho cán bộ các nước chậm tiến muốn hiện đại hóa. 
Những nhận xét trên đây cho thấy rằng, đối với người lãnh đạo ‘’xứng danh’’, các vấn đề tổ chức và giáo dục quần chúng cũng rất hệ trong. Nó cũng được Tùng Phong soi sáng, nhưng ta không thể bàn đến trong khung khổ của bài này.  
Vấn đề then chốt kế tiếp cần được soi sáng, sau khi đã được thấy rõ vấn đề chính của Việt Nam, lối tiếp cận hữu hiệu, và một giải pháp thích nghi để giải quyết vấn đề, là vấn  đề lựa chọn dụng cụ để thực hiện giải pháp  đó: Vấn đề ‘’khung cảnh chính trị’’.
 
VI 
Vấn  đề ‘’khung cảnh chính trị’’ là vấn đề tìm cho Việt Nam ‘’một chính thể thích nghi cho Dân Tộc’’. Chính thể đó ‘’không phải định đoạt do một sự lựa chọn căn cứ trên những lý thuyết chính trị hay là những nguyên nhân triết lý, mà sẽ được quy định một cách rõ rệt bởi hoàn cảnh địa dư và lịch sử của chúng ta, cùng với trình độ phát triển của Dân Tộc…’’ Đặt vấn đề như vây là xét vấn đề phát triển từ góc độ địa lý chính trị và văn hóa, một lối tiếp cận vấn đề phát triển mới và độc đáo. 
Một  điều độc đáo và mới nữa là trong sự tìm một con đường thích nghi cho sự phát triển Việt Nam, Tùng Phong chú tâm vào nguy cơ Việt Nam bị xâm lăng, và đặc biệt nguy cơ bị lệ thuộc Trung Hoa. Trong sự cứu xét kỹ vấn đề này ông đã đưa ra những cảnh báo có tính cách tiên tri, vì tuy  đưa ra cách đây 50 năm, ngày nay nó đang xảy ra ngay dưới mắt chúng ta. 
Tùng Phong đặt sự phân tách vấn đề trên hai dữ  kiện:
1.- Hoàn cảnh địa dư lịch sử của Việt Nam.
2.- Tình trạng nội bộ của Việt Nam. 
Ngay trong trang mở đầu của tác phẩm, ông đã đặt vấn đề như sau:
‘’Việt Nam là một nước nhỏ về dân số, về lãnh thổ, về kinh tế kém phát triển, về phần đóng góp vào văn minh nhân loại. Cho nên lúc nào cũng bị các nước lớn chi phối, lúc nào cũng sống dưới sự đe dọa liên tục của ngoại xâm, và ‘’và lúc này hơn lúc nào hết, nạn ngoại xâm vẫn đe dọa Dân Tộc Việt Nam’’. (Chính Đề Việt Nam, trang 13) Ở một đoạn dưới Tùng Phong cảnh báo: ‘’bao giờ yếu tố đó chưa thay đổi thì họa xâm lăng vẫn còn’’.(Chính Đề Việt Nam, trang 236).
Nói  đến ‘’địa dư’’ là nói đến sự kiện Việt Nam nằm sát biên giới Trung Hoa. Nói đến ‘’tình trạng nội bộ của chúng ta’’ là nói đến tình trạng Bắc Việt đã chọn con đường cộng sản, nghĩa là chế độ độc tài đảng trị như Trung Hoa.  
Phương pháp độc tài đảng trị là một phương pháp hấp dẫn đối với nhiều người lãnh đạo khi có một chương trình vĩ đại cần được thực hiện trong một thời gian ngắn vì nó dưạ trên căn bản chặt hết các dây liên hệ của từng cá nhân bất cứ dưới hình thức gia đình, xã hội, tôn giáo và văn hóa, và thay vào đó bằng những liên hệ duy nhứt với một đảng chính trị duy nhứt nắm chính quyền. Nó biến mỗi cá nhân thành ra một bộ phận rất dễ sai khiến, dễ uốn nắn của bộ máy khổng lồ nhiều khả năng nhưng cũng dễ sử dụng trong tay người lãnh đạo. (Chính Đề Việt Nam, trang 302-04) 
Nhưng, về phần miền Nam thì Tùng Phong quả quyết: Nếu bây giờ chúng ta chưa có ý thức rõ rệt chính thể ấy phải thế nào, thì ngay bây giờ chúng ta có thể quan niệm được rằng ‘’chính thể đó không thể là một chính thể chuyên chế hay độc tài được. Đó là một thái độ rất rõ rệt’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 244-245). 
Lý  do của thái độ dứt khoát trên đây là một chế độ độc tài đảng trị không thể đưa đến một trạng thái điều hòa mới trong đó tiêu chuẩn mới sống chung với tiêu chuẩn cũ, ‘’vì [nó] phủ nhận quyền tư hữu, bài trừ tôn giáo, vân vân, đã nhân danh quyền lợi của cộng đồng mà bóp chết cá nhân, do đó tiêu diệt trạng thái thăng bằng động tiến căn bản trong một cộng đồng, giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi cộng đồng. Trạng thái thăng bằng biến mất, vì hai lực lượng tương phản không còn để tạo ra một cuộc phối hợp sáng tạo. Sinh lực sáng tạo không có thì sự tiến hóa trong tương lai của cộng đồng không bảo đảm’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 305). 
Không có một quốc gia Tây phương nào thực hiện phát triển bằng độc tài đảng trị. Ngay cả Nga Sô cũng phải từ bỏ chế độ đó và trở về với những giá trị tiêu chuẩn có tính cách di sản của nhân loại. Bài học của Nga Sô chứng minh rằng phương pháp độc tài đảng trị cộng sản không thế nào bảo đảm được sự thành công của một công cuộc phát triển Dân Tộc toàn diện. Nó đòi hỏi phải thay thế các giá trị tiêu chuẩn, và đả phá tận nền tảng Mác-Lê. Lãnh đạo Nga Sô không muốn vậy, nhưng ‘’thực tế lịch sử đã dồn họ vào cái thế không làm sao không thay đổi được’’. Điều nhận xét nay được đưa ra năm 1960, 40 năm trước khi khối cộng sản tan rã, và Liên Bang Nga Sô và đảng cộng sản liên sô bị giải thể… 
Trong bối cảnh trên đây, câu hỏi được đặt ra là: Sau khi độc lập đã khai phục, Dân Tộc chuyển qua giai đoạn phát triển, đường lối cộng sản còn thích hợp hay không ? Giải đáp cho câu hỏi này liên quan đến sự bang giao giữa Trung Hoa và Việt Nam.
Về  phía Trung Hoa, Tùng Phong nhận xét: 
‘’Trong quá khứ, ngay những lúc ta chiến thắng Trung Quốc, các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng khôn ngoan hòa thuận với Trung Quốc và tự đặt mình vào chế độ thuộc quốc. Nhưng điều mà Trung Quốc muốn không phải là Việt Nam chỉ thần phục và triều cống Trung Hoa, suốt thời gian gần một ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng muốn lấy lại mảnh đất mà Trung Hoa coi như tạm mất’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 235)
Tùng Phong nhắc lại rằng trong 900 năm (939-1840) Trung Hoa đã  bảy lần toan chiếm Việt Nam.  
‘’Một hành động liên tục như vậy nhứt định có nghĩa là tất cả các triều đại Trung Hoa đều theo đuổi một chính sách, đặt nền thống trị trên lãnh thổ Việt Nam. Chính sách này do một điều kiện địa dư và kinh tế định: Lưu vực sông Hồng Hà là đường thoát ra biển thiên nhiên của các Tỉnh Tây Nam của Trung Hoa. Đã như vậy, ngay từ bây giờ [1960], ý định của Trung Hoa vẫn là muốn thôn tính, nếu không phải hết nước Việt Nam, thì ít ra cũng Bắc phần…’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 235) 
Thế còn dữ kiện Trung Cộng ủng hộ viện trợ cho Việt Nam, và đặc biệt đã giúp Việt Nam thắng trong trận Điện Biên Phủ ? Tùng Phong giải thích: Trung Cộng đã viện trợ cho Bắc Việt vì trong hoàn cảnh phát triển nghiêm khắc của họ, họ phải nỗ lực vận động một mặt trận đồng minh thế giới làm hậu thuẫn cho chương trình phát triển của họ. Vả lại ta phải tự hỏi: Họ đã giúp khí giới kỹ thuật và phương tiện cho Việt Nam chiến thắng vì họ thân Việt Nam hay vì họ bài Mỹ, và khi viện trợ như vậy họ coi Việt Nam là một đồng chí cộng sản hay là một phần đất cũ xưa kia, và nay sắp gần được gồm thâu vào lãnh thổ của họ ?(Chính Đề Việt Nam, trang 235)
Với cuộc phát triển  đang thực hiện ‘’nước Tàu của Mao Trạch Đông còn cần dùng con đường ra biển ‘’hơn cả các triều  đại trước đây của Trung Hoa’’. Viện trợ cho Bắc Việt, trên quan điểm đó, là để dành quyền sử dụng con đường ra biển ‘’khi thời cơ đến’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 29). Cho nên ‘’Đối với Dân Tộc Việt Nam, Trung Hoa của Mao trạch Đông, cũng như của các triều đại Nguyên, Tống, Minh, Thanh là một đe dọa truyền kiếp’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 286). 
Những nhận xét trên đây được đưa ra vào khoảng năm 1960. Ngày nay, 50 năm sau, trong bối cảnh Trung Hoa cưỡng chiếm các Đảo Trường Sa, Hoàng Sa, Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, Hải phận Vịnh Bắc Việt, v.v…,nó nói lên sự sáng suốt của những người lãnh đạo Cộng Hòa Đệ I, và sự thất thiệt lớn lao cho xứ sở do sự mất  những người lãnh đạo này do những biến cố năm 1963 gây nên.
 
VII 
Những điều vừa trình bày trên đây cho phép trả lời một cách dứt khoát câu hỏi: Ngày nay, đường lối cộng sản còn thích hợp không ? Giải đáp là: Không. Không nhưng đúng cho thời gian 1960, mà hiện nay 2009, lại còn đúng hơn nữa. Nhưng điều quan trọng là ta phải hiểu cho thật rõ: Tại sao, như Tùng Phong giải thích dưới đây. 
Chủ trương cộng sản chẳng những không giải quyết được vấn đề của Quốc Gia Việt Nam trong thời kỳ này [1960] của cộng đồng, mà lại ‘’sẽ đưa Dân Tộc vào một con đường đen tối cho nhiều thế hệ tương lai’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 27) và ‘’sự gắn liền vận mạng của chúng ta vào vận mạng Trung Cộng là một hành động di hại cho Dân Tộc’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 290).
Tùng Phong nhận xét: Mối liên hệ giữa cộng sản Việt Nam với Trung Quốc làm ‘’tái hiện dũng mãnh’’, sau một trăm năm vắng mặt, ‘’ký ức thời kỳ thống trị tàn khốc của Tàu đối với chúng ta’’, và cảnh báo: 
‘’Các nhà lãnh đạo miền Bắc, khi tự đặt mình vào sự chi phối của Trung Cộng, đã đặt ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của chúng ta, mà còn đe dọa sự tồn tại của Dân Tộc…’’ 
‘’Sở dĩ ngày nay [1960], sự thống trị của Trung Cộng đối với Việt Nam chưa thành hình, là vì hoàn cảnh chính trị thế giới chưa cho phép, và sự tồn tại của miền Nam dưới ảnh hưởng của Tây phương là một trở lực vừa chính trị vừa quân sự cho sự thống trị đó. Giả sử mà Nam Việt Nam bị Bắc Việt thôn tính, thì sự thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 301).
Ngày nay, năm 2009, những cảnh báo trên đây không còn là cảnh báo nữa, mà đã thành hiện thực: Sự thôn tính Nam Việt bởi Bắc Việt đã mở đường cho Trung Quốc thôn tính toàn Việt Nam. 
Tùng Phong viết: ‘’các nhà lãnh đạo phía Bắc vẫn chưa nhận thức được nguy cơ đang đe dọa Dân Tộc và những ngày đen tối của chúng ta vẫn còn tiếp tục’’ vì ‘’những người lãnh đạo này đang còn say mê thuyết cộng sản và đương nhiên đưa nó lên hàng một chân lý’’ trong khi Nga Sô và Trung Cộng chỉ coi nó là một phương tiện. Đưa một phương tiện của ngưòi lên làm chân lý của mình là mặc nhiên hạ mình xuống thấp hơn một bực đối với các lãnh tụ cộng sản quốc tế, ‘’và tự biến mình thành một thứ nô lệ trí thức cho người sai khiến’’. Vì vậy cho nên, trong nhiều hành động chính trị của các nhà lãnh đạo phía Bắc ‘’lý thuyết được để lên trên quyền lợi Dân Tộc’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 290). 
Vì sự lệ thuộc về lý thuyết, các lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã hy sinh quyền lợi Dân Tộc Việt Nam cho quyến lợi của Dân Tộc Trung Hoa. Nếu đặt quyền lợi của Dân Tộc trên hết, ‘’thì không có lý do gì để binh vực sự gắn liền vận mạng công cuộc phát triển của chúng ta với vận mạng công cuộc phát triển của Trung Cộng’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 338). 
Tùng Phong nói: ‘’sự gắn liền vận mạng của chúng ta vào vận mạng Trung Cộng là một hành động di hại cho Dân Tộc’’. (Chính Đề Việt Nam, trang 290) Sự áp dụng các phương pháp huy động nhân lực Trung Cộng vào trường hợp Việt Nam, mặc dầu hoàn cảnh phát triển của chúng ta không hề đòi hỏi những phương tiện như vậy, là ‘’làm sống lại tâm lý thuộc quốc gần như đã chết trong thế kỷ, của những người tự  ty mặc cảm trước ‘’Trung Hoa vĩ đại’’, lúc nào cũng xem Việt Nam là ‘’một Trung Hoa con con’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 342). Nếu Trung Hoa diễn tuồng trên sân khấu 100 m2, Việt Nam cũng phải diễn cùng một tấn tuồng trên 1 m2 .  ‘’Ngày nay, vì nước Tàu thi hành phương pháp độc tài đảng trị kinh khủng một cách rộng lớn, thì Bắc Việt cũng phải thi hành phương pháp độc tài đảng trị kinh khủng một cách nho nhỏ’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 342)
Sự  quy phục thuyết cộng sản ‘’sẽ đương nhiên biến sự đe dọa thống trị của nước Tàu đối với Việt Nam thành thực tế…’’, các nhà lãnh đạo cộng sản áp dụng phương pháp độc tài đảng trị ở Việt Nam ‘’sẽ đương nhiên tạo điều kiện thuận lợi cho Trung Cộng xâm chiếm Việt Nam’’ vì phương pháp đó ‘’sẽ suy nhược hóa sức đề kháng của Dân Tộc đối với kẻ xâm lăng’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 373). 
‘’Trong tình thế chính trị chúng ta được mục kích, sự quy phục thuyết cộng sản của các nhà lãnh đạo Bắc Việt tự nó là một sự thần phục Trung Cộng, như các triều đại xưa của chúng ta thần phục Trung Hoa…’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 374). 
‘’Sự quy phục lý thuyết cộng sản sẽ đương nhiên gắn liền vận mạng công cuộc phát triển Dân Tộc chúng ta vào vận mạng công cuộc phát triển của Trung Hoa…Như vậy có nghĩa là ‘’chúng ta tự ý bỏ công cuộc phát triển của chúng ta’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 374) 
Sự lệ thuộc trên đây là một lệ thuộc nặng nề của Việt Nam đối với văn hóa Tàu.
Từ ngày lập quốc, cách đây hơn một ngàn năm, sự  chi phối của Trung Hoa đối với Việt Nam nặng nề  đến đỗi tâm lý thuộc quốc bao trùm mọi lĩnh vực của đời sống của Dân Tộc.
Tâm lý này xuất phát từ hai sự kiện: Tự  ty mặc cảm đối với ‘’Trung Hoa vĩ đại’’, và sự lệ thuộc của ta đối với văn hóa Tàu. Những lời ca tụng ‘’Trung Hoa vĩ đại’’ của miền Bắc, những điệu âm thanh Trung Cộng của đài phát thanh Hà Nội, những điệu vũ nữ hòa bình, và những y phục theo Tàu đều là ‘’những biểu lộ thiết thực của một sự lệ thuộc văn hóa càng ngày càng sâu đậm của miền Bắc đối với Trung Cộng’’ bởi vì ‘’các nhà lãnh đạo miền Bắc đã chấp nhận một sự lệ thuộc tư tưởng’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 375).
Mà cũng vì lệ thuộc chủ nghĩa cộng sản mà cuộc chiến đấu dành độc lập của chúng ta tiêu hao bao sinh lực Dân Tộc, mà xảy ra tình trạng chia đôi đất nước, mà chiến tranh tàn phá cái vốn nhân lực và tài nguyên của chúng từ hai mươi năm nay. (Chính Đề Việt Nam, trang 376). Từ mười năm nay [1954] Bắc Việt chưa thực hiện được những mục tiêu đáng kể, trong  khi các thực hiện của Nam Việt đều bị du kích quân Bắc Việt phá hoại. Bao nhiêu sinh lực của Dân Tộc đã bị phí phạm. 
Tùng Phong nhận xét rằng: ‘’Chưa có một triệu chứng nào chứng tỏ rằng các nhà lãnh đạo miền Bắc hiện nay đã nhận thức những điều kiện trên. Thư lại chính trị miền Bắc vẫn còn đang ca tụng như những chân lý những giá trị tiêu chuẩn và giai đoạn mà Nga Sô đã bỏ’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 287). Và cũng vì các lý do trên đây, Tùng Phong nói, ‘’chúng ta có thể quả quyết rằng các nhà lãnh đạo phía Bắc chưa nhận thức nguy cơ đang đe dọa Dân Tộc, và những ngày đen tối của chúng ta vẫn còn tiếp tục’’ (Chính Đề Việt Nam, trang 217). 
Những nhận xét và cảnh báo trên đây là những nhận xét và cảnh báo thốt ra năm 1960. Những gì xảy ra từ 1975 chứng tỏ rằng tình hình càng ngày càng trầm trọng hơn thêm, và lại còn đen tối hơn là Tùng Phong đã dự đoán. Ngày nay 2009, Trung Hoa không những đe dọa sự tồn tại của Việt Nam, mà đang thực sự thôn tính Việt Nam. Nhân danh xã hội chủ nghĩa và cách mạng thế giới cộng sản Trung Hoa đã cỡi lưng cộng sản Việt Nam bành trướng ách thống trị của Trung Hoa qua vĩ tuyến 17, bao luôn Cao Nguyên Nam Phần, xuống tận Cà Mau.  
Năm 1960, Tùng Phong còn hy vọng rằng ‘’sự tồn tại miền Nam là một bảo đảm cho Dân Tộc thoát khỏi ách thống trị Trung Cộng, vừa là bảo đảm cho cơ hội phát triển của chúng ta, và vừa là một lối thoát cho các nhà lãnh đạo Bắc Việt khi họ ý thức nguy cơ họ đang tạo cho Dân Tộc…sự mất còn của miền Nam, ngày nay, lại trở thành một sự kiện quyết định sự mất còn trong tương lai của Dân Tộc’’. (Chính Đề Việt Nam, trang 301-302).
Không may cho Dân Tộc Việt Nam, hy vọng lớn trên đây đã không thành. Cuộc đảo chánh tháng 11, năm 1963, và những sự xáo trộn nó gây ra, tạo ra một tình trạng miền Nam vô chính phủ, vô lãnh đạo, sinh lực sút giảm, đồng thời những xáo trộn do những lực lượng phản chiến Hoa Kỳ áp lực chính phủ Mỹ phải bỏ rơi Việt Nam, tạo ra một tình trạng hỗn loạn, suy sụp, tạo điều kiện cho cộng sản chiến thắng và thôn tính miền Nam. Đặc biệt là lúc đó, họ càng tin là họ đã đúng đường. Nhưng, ngày nay, sau những gì đã xảy ra từ lúc cộng sản xâm chiếm miến Nam, càng ngày càng rõ rằng những gì Tùng Phong nói lên trên đây trong Chính Đề Việt Nam là đúng:  Sự mất còn của miền Nam là một bảo đảm cho Dân Tộc thoát khỏi ách thống trị Trung Cộng, vừa là lối thoát cho các nhà lãnh đạo Bắc Việt khi họ ý thức nguy cơ họ đang tạo cho Dân Tộc… 
Điều vừa nêu lên giúp làm sáng tỏ một vấn đề đã làm dư luận bàn tán nhiều năm 1963, và trong thờì gian qua, vẫn còn được nhiều người đề cập đến. Năm 1963 có những tin đồn rằng ông Ngô Đình Nhu (Tùng Phong) liên lạc với cộng sản. Điều này nay đã được những người thân cận xác nhận. Nhưng điều quan trọng nhất (để làm gì) thì ngoài ông Nhu ra, không ai biết ông Nhu và những người bên kia bàn gì với nhau. Nay ông Nhu đã mất, điều này vẩn chưa được soi sáng vì không có, và không còn nhân chứng, trừ anh Cao Xuân Vỹ, mà chính anh Cao Xuân Vỹ cũng không được biết. 
Nay, chỉ còn tôi là người nhân chứng duy nhứt. Nhưng tôi chỉ làm nhân chứng  những điều sau đây do chính ông Nhu đã tiết lộ trong một cuộc họp báo với ký giả ngoại quốc vào cuối tháng 9 năm 1963. Tôi là thông dịch viên trong buổi họp báo đó, (xin xem hình kèm) và tôi đã nghe và thông dịch hai điều sau đây:
1.- Ông đã tiếp Trần Độ ngay ‘’trong phòng này’’, văn phòng của ông, nơi mà ông đang tiếp các ký giả.
2.- Trần Độ có hỏi ông: ‘’Nếu chúng tôi buông súng thì Việt Nam sẽ thế nào ?’’ 
Như  vậy nghĩa là:
1.- Ông Nhu đã có tiếp xúc với phía cộng sản.
2.- Ông Nhu đã có đề cập đến vấn đề phía cộng sản ngưng chiến.
Với những lý luận gì ? Nay Chính Đề Việt Nam -ta nên nhớ rằng tác phẩm này được hoàn tất vào năm 1962 cho phép ta nghĩ rằng Ông Nhu đã nói với phía bên kia như sau:
1.- Chuyên chế độc tài đảng trị không thể chấp nhận được, và khư khư ôm lấy thuyết cộng sản, như các nhà lãnh đạo miền Bắc đang làm, là sai, vì nó không thich nghi với hoàn cảnh đặc biệt của Việt Nam và không giải quyết được vấn đề phát triển hiện đại hóa của Dân Tôc Việt Nam được.
2.- Áp dụng thuyết cộng sản là thần phục Trung Hoa, tái lập sự lệ thuôc của Dân Tộc Việt Nam đối với Trung Hoa như dưới các triều xưa, và tạo điều kiện cho Trung Hoa xâm chiếm Việt Nam.
3.- Sự tồn tại của miền Nam là một lối thoát cho lãnh đạo miền Bắc khỏi mang tiếng là đã hy sinh quyền lợi của Dân Tôc Việt Nam, và phục vụ quyền lợi Trung Hoa. 
Như ta đã thấy ở đoạn trên, Ông Nhu than phiền rằng các nhà lãnh đạo miền Bắc đã mù quáng không chịu bỏ thuyết cộng sản, vẫn cho đó là chân lý, nhất quyết ‘’trụ’’ với giải pháp độc tài đảng trị, và quy phục Trung Cộng. 
Đó là năm 1962. Bây giờ, năm 2009, tình trạng lại trầm trọng và khẩn trương hơn. Và không biết bao giờ lại mới có cơ hội, và một sự lãnh đạo sáng suốt để bảo đảm công cuộc phát triển để giải quyết vấn đề đặt ra cho Dân Tộc Việt Nam từ một ngàn năm: ‘’cởi bỏ cho Dân Tộc tâm lý thuộc quốc đối với Trung Hoa’’, như Lý ThườngKiệt và Nguyễn Huệ đã làm. (Chính Đề Việt Nam, trang 342) 
Dù  sao, ngày nay, với Chính Đề Việt Nam, lối tiếp cận và giải pháp đã có, ngoài hai điều kiện vừa nêu trên, chỉ cần một điều kiện căn bản hơn cả,  mà Tùng Phong đưa ra trong phần kết thúc tác phẩm. Đó là: 
‘’Trong tình hình chính trị thế gới hiện nay, và trong trình độ tiến hóa của nhân loại hiện nay, các vấn đề Dân Tộc Việt Nam, trong thời kỳ này, chỉ có thể tìm ra được một giải đáp nếu chúng ta trụ vào vị trí Dân Tộc’’. (Chính Đề Việt Nam, trang 503) 
Và  Tùng Phong kết luận vói một lời nhắc và hai lời kêu gọi.  
Lời nhắc đề cập đến một thực tế mà ta không thể phủ nhận được. Đó là dưới áp lực của nhân khẩu, Trung Hoa phải bành trướng. Sự bành trướng này đã mở màn. ‘’Nếu chúng ta không thức tỉnh thì một trong những nạn nhân đầu tiên của sự bành trướng nói trên sẽ là chúng ta. Chỉ tưởng tượng đến viễn ảnh đó cũng đủ làm cho chúng ta khủng khiếp’’. 
Và hai lời kêu gọi, một lời hướng về miền Nam, và  một lời hướng về miền Bắc: 
1.- ‘’công cuộc chống sự xâm lăng của miền Bắc không lúc nào khẩn thiết cho cộng đồng Dân Tộc Việt Nam bằng trong lúc này hết. 
2.- Chúng ta mong mỏi các nhà lãnh đạo miền Bắc kịp thời nhận định đã đến lúc, vì sự tiến hóa của Dân Tộc, không nên tiếp tục sự trụ đóng vào phương tiện cộng sản nữa’’. (Chính Đề Việt Nam, trang 505-506) 
Ngày nay, miền Nam không còn nữa, mà Tùng Phong cũng không còn nữa, nhưng lời nhắc và những lời kêu gọi trên lại còn thích hợp hơn lúc nào hết.
Viết cho Đặc San Vào dịp Lễ Tưởng Niệm Tống Thống Ngô Đình Diệm  - Tháng 11, năm 2009.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét